. NGUYỄN MINH TRƯỜNG
Trong hệ thống những địa danh của thơ ca chống Mỹ, Trường Sơn có lẽ là cụm từ được nhắc đến nhiều nhất. Hiếm có một thời nào mà hình ảnh Tổ quốc và con người Việt Nam gắn liền với một địa danh lại hiện lên rõ nét, sống động, thiêng liêng và ám ảnh trong thơ đến vậy. “Hai tiếng Trường Sơn đối với dân tộc và đất nước ta gắn bó thiêng liêng. Con đường Trường Sơn đối với lịch sử chiến đấu của dân tộc ta rất vĩ đại. Viết về Trường Sơn là một nhiệm vụ và cũng là một niềm vinh dự…”. Cùng “chiêm ngưỡng” lại hình tượng Trường Sơn trong “bức tranh đa sắc” của thơ chống Mỹ vào đúng dịp kỷ niệm 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2025) là cơ hội để chúng ta thêm tự hào về một địa danh huyền thoại, một biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa yêu nước, anh hùng cách mạng và niềm tin tất thắng không gì lay chuyển được...
“Bức tranh đa sắc” của thơ chống Mỹ
Vấn đề cơ bản của thơ chống Mỹ là chủ nghĩa anh hùng Cách mạng và vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt Nam. “Nếu nói rằng nền thơ của một dân tộc là biểu hiện rõ nhất và trong một dạng tinh chất nhất tâm hồn dân tộc thì nền thơ chống Mỹ những năm qua quả là một tấm gương trong sáng và trung thực, qua đó ta nhìn thấy vẻ đẹp tinh thần của con người Việt Nam đang đánh giặc...”[1].
Cuộc kháng chiến đặt dân tộc ta trước những thử thách gay gắt. Vận mệnh của đất nước, tự do, độc lập của dân tộc đứng trước nguy cơ một mất một còn. Thơ chống Mỹ đã nhanh chóng nhập cuộc, bước vào cuộc kháng chiến, có mặt ngay ở vị trí chiến đấu của mình và thực hiện sứ mệnh cao cả trên mặt trận văn nghệ, trở thành “một vũ khí sắc bén trên mặt trận tư tưởng, góp phần quan trọng vào nhiệm vụ chống Mỹ cứu nước”. Thơ thời kỳ này chính là sự hội tụ, sự kết tinh, hòa quyện của những cảm hứng lớn: Cảm hứng về Tổ quốc và chủ nghĩa anh hùng cách mạng hun đúc trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước; cảm hứng về sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, giữa tính cộng đồng và yếu tố cá nhân trong mối quan hệ của dân tộc và thời đại. Nếu cảm hứng thời đại chi phối toàn thể nền thơ, như một đặt hàng lớn của Tổ quốc, của Nhân dân thì phong cách cá nhân chính là sự thể hiện một cách linh động, độc đáo của thơ ca thông qua những đóng góp cụ thể ở mỗi người viết với tư cách là nhà thơ, một chủ thể sáng tạo. Thơ chống Mỹ là một nền thơ với những gương mặt thơ mang phong cách đa dạng, riêng biệt tựa như “bức tranh đa sắc” chứ không phải chỉ là một dàn đồng ca, có chung một bộ đồng phục như nhiều ý kiến đã từng nhận định. Trong sự chi phối của những cảm hứng lớn, mỗi nhà thơ đều có một cách đáp ứng riêng bằng những trải nghiệm cá nhân thông qua giọng điệu, thi pháp đặc thù với những hình thức “bung phá” hợp thời đại, đem đến những nét độc đáo riêng và đó là lý do để thơ kháng chiến chống Mỹ tạo nên được sức hấp dẫn cho cả một thế hệ. Dù đó là câu thơ ghi vội, nhưng nó không phải những ký thác đơn thuần bằng ngôn ngữ, mà là sự hoà quyện giữa tư tưởng và cảm xúc: Cảm xúc từ trái tim/ Tư tưởng sáng trong đầu (Nguyễn Đức Mậu). Những bài thơ ra đời giai đoạn này có mặt ở mọi nơi, thơ in thành sách, thơ đăng trên báo, thơ đăng tải trên sóng phát thanh khắp mọi miền của Tổ quốc từ biên giới đến hải đảo từ miền Bắc đến miền Nam, vượt qua vòng vây đến các trại giam Côn Lôn, Côn Đảo, Chí Hoà... và đều có chung một lý tưởng cách mạng, ngợi ca Tổ quốc và Nhân dân, tin tưởng vững vàng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Trong đội ngũ đông đảo hàng vạn người con cầm súng đi vào các chiến trường miền Nam chống Mỹ, chúng ta đã có cả một thế hệ những nhà thơ trẻ tài năng, nối tiếp mạch nguồn của các thể hệ đi trước như Nguyễn Khoa Điềm, Bằng Việt, Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Lê Anh Xuân, Vũ Quần Phương, Phan Thị Thanh Nhàn, Anh Ngọc, Vương Trọng, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Trọng Tạo, Lâm Thị Mỹ Dạ, Hoàng Nhuận Cầm... Điều đáng quý hơn cả, các nhà thơ này đã nhận thức sâu sắc sứ mệnh lịch sử lớn lao của thế hệ mình, chọn một con đường đi cho mình trong nhịp sống kháng chiến cuồn cuộn của dân tộc. Vừa cầm súng, vừa cầm bút và chính họ đã viết về thế hệ mình mình một cách trân trọng, tự hào: Không có sách chúng tôi làm ra sách - Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình (Hữu Thỉnh).
Giữ vị trí như một bộ phận không thể thiếu của cuộc kháng chiến, thơ chống Mỹ đã thành công trong việc mở rộng diện phản ánh, tạo nên sức ôm trùm rộng rãi và tầm vóc bề thế. Con người Việt Nam trong dòng lịch sử bốn ngàn năm, của một nửa thế kỷ theo Đảng trong cuộc đấu tranh giành tự do, độc lập đã tự tin bước vào những tháng năm chống Mỹ bằng cả sức mạnh truyền thông cùng những phẩm chất mới của một thời đại mới. Không ngừng nâng mình lên ngang tầm thời đại, thơ chống Mỹ đã vượt qua những thử thách và khó khăn, ghi lại trong nhiều vần thơ vẻ đẹp, sự phong phú của tâm hồn Việt Nam trong những năm tháng hào hùng nhất của lịch sử dân tộc. Những bài thơ được nhiều người yêu mến hầu hết là những tác phẩm “có chiều sâu cảm xúc và chiều cao trí tuệ, có nội dung và nghệ thuật tốt, có tính nhân văn, nhân bản sâu sắc. Vì thế nó không chỉ được thế hệ đương thời yêu thích mà nó còn có đời sống văn học dài lâu, trường tồn cùng lịch sử dân tộc...”[2].
Kháng chiến chống Mỹ cứu nước - khẩu hiệu thiêng liêng ấy trong cảm nhận của các nhà thơ như một cuộc ra quân hùng hậu bốn ngàn năm dồn lại hôm nay. Giữa đội ngũ trùng trùng của các thế hệ hành quân ra mặt trận, họ luôn ở đội tiên phong, trẻ có, già có, mỗi lứa tuổi nhìn cuộc chiến với một cảm hứng khác nhau. Với các nhà thơ đã từng trải qua cuộc kháng chiến chống Pháp, lý tưởng thẩm mỹ của họ trùng hợp với lý tưởng của thời đại và khát vọng độc lập, tự do của dân tộc. Bởi vậy, họ tự xác định phải phản ánh trung thực và sinh động sự nghiệp cách mạng mà mình đang ký thác toàn bộ cuộc đời trong đó. Tâm thế nhập cuộc và dấn thân hết sức tự giác ấy đã giúp họ hòa quyện được cái “Tôi” trữ tình và cái “Ta” hào sảng, từ đó chủ động sắp xếp hài hòa mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa cái cá nhân và cái cộng đồng. Với các nhà thơ trẻ, bằng những suy nghĩ chân thành, nồng nhiệt họ đã góp phần khẳng định mối quan hệ thiết cốt giữa thơ và đời, giữa sứ mệnh thiêng liêng cao cả của nhà thơ và của thơ trong cuộc trường chinh vĩ đại của dân tộc. Hoà vào dòng người “xẻ dọc Trường Sơn đi đánh Mỹ” khao khát của các nhà thơ là được đến với “biển lớn cuộc đời”:
Khi con đến với lòng chân thật
Để trong lành đôi mắt
Như luống khoai, con khát trận mưa đầu
Như giọt nước, con thèm hoà tận biển…
(Những người đi tới biển - Thanh Thảo)
“Đường ra trận mùa này đẹp lắm”!
Đến với Trường Sơn để đánh giặc và “làm thơ ghi lấy cuộc đời mình” - đó là một cuộc sống đẹp của một thế hệ “xoay trần đánh giặc”. “Hai tiếng Trường Sơn đối với dân tộc và đất nước ta gắn bó thiêng liêng. Con đường Trường Sơn đối với lịch sử chiến đấu của dân tộc ta rất vĩ đại. Viết về Trường Sơn là một nhiệm vụ và cũng là một niềm vinh dự...”[3]. Nhà thơ Trần Quang Quý, cựu chiến binh Bộ đội Trường Sơn khi chia sẻ về vai trò của địa danh linh thiêng Trường Sơn với xúc cảm thi ca những năm tháng chống Mỹ đã khẳng định: “Đường Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh là biểu tượng của ý chí thống nhất Tổ quốc. Trong môi trường ấy, các nghệ sĩ đến với Trường Sơn, hòa với màu xanh đại ngàn, màu xanh áo lính… mà xúc cảm, chớp lấy những khoảnh khắc tâm trạng, những chi tiết, tình huống của đời sống chiến tranh viết nên thi điệu của mình trong bản “tổng phổ” thơ kháng chiến...”[4].
Đường Trường Sơn đi trong lòng người, nhập vào đời sống tình cảm của cả một dân tộc. Đó là con đường mòn huyết mạch nối hậu phương lớn miền Bắc với chiến trường miền Nam nước Việt. Đó cũng là “con đường chạy thẳng vào tim” những người yêu nước, luôn khát khao đất nước mình thống nhất, hòa bình và giàu mạnh. Trường Sơn tự nó đã tạo nên một tấm bia mang chiều kích vũ trụ, sừng sững như những dải núi “hình vây cá” “ngửa mặt” nhìn trời. Trên tấm bia khổng lồ Trường Sơn ấy, chữ của nó là những con đường đỏ như son, kẻ chi chít dọc ngang, nhiều “cua chằng chịt” tạc vào mình núi như dấu ấn còn mãi của tinh thần thế hệ. “Đường Hồ Chí Minh sáng đỉnh Trường Sơn - xe ta qua Trường Sơn là Việt Nam ta tất thắng...” (Thép Mới). Có một thời kỳ, giới báo chí phương Tây mặc dù chưa một lần đặt chân tới Việt Nam, nhưng nói về con đường mòn ấy nhiều hơn cả người Việt. Nào là “câu chuyện thần thoại Đông Dương”, là “con rồng nghìn vảy chặt xong lại mọc” nào là “con đường thần thông biến hoá y như được đức Phật chí tôn phù hộ độ trì”[5]. Con đường mang tên Bác khai sinh đúng vào ngày 19 tháng 5, cũng như từ hang Pắc Bó năm xưa chính ngày ấy Mặt trận Việt Minh ra đời. Từ buổi vạch lá tìm đường, nộp thuế máu cho vắt, những người lính Trường Sơn đã gửi vào con đường tất cả niềm tin và nguồn thương nhớ:
Đường có tên khi có bàn chân
Khi có bánh xe đầu tiên lao tới
Đoàn dân công như nguồn nước mới
Nao nức đi dọc hành lang Trường Sơn…
(Khúc hát rừng - Lê Thị Mây)
Những “thi sĩ Trường Sơn” thời đó làm thơ cho mình, nhưng cũng là làm thơ cho đồng đội, cho dân tộc mình trong dòng mạch cả dân tộc Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai. Họ là những thanh niên, trí thức trẻ, xung phong ra tiền tuyến từ giảng đường đại học, từ cổng trường trung học... vốn nhiều mơ mộng, lại sải chân tới những vùng quê, vùng rừng tươi đẹp của đất nước nên những bất ngờ, thú vị của môi trường đã kết đọng thành thơ. Đó là cái thời của “cái chết nhẹ như lông hồng” đối với những chàng trai, cô gái tự nguyện hiến dâng tuổi thanh xuân cho lý tưởng chung. Đó cũng là thời mà chính “người lĩnh xướng dàn thơ chống Mỹ” Phạm Tiến Duật cũng bất ngờ phát hiện ra một “định luật” mang tính vật lý của cuộc sống: “Giữa chiến trường nghe tiếng bom rất nhỏ”. Những người lính ra trận hầu hết là lính trẻ, nhưng họ đã có những suy nghĩ thật sâu sắc về tình yêu đất nước:
Trời không mây mà lạ lắm hôm nay
Đường ra trận lòng ta thành náo động
Sờ lên súng thấy bàn tay mình nóng
Hiểu đốt lòng người đâu chỉ lúc xung phong.
(Bức tranh dọc đường hành quân - Hoàng Nhuận Cầm)
Sức sống thực sự của một vùng đất do chính con người đem lại. Sự hiện diện của dấu chân những người lính tiên phong đi mở đường mòn để đưa lương thực, vũ khí và nhân lực từ hậu phương ra tiền tuyến đã “kéo” rừng núi đại ngàn tham gia chiến dịch, mang cho con đường một cái tên ý nghĩa:
Anh gọi tên đường là đường Hồ Chí Minh
Em gọi nôm na là con đường tuyến…
(Đường Hồ Chí Minh - Thanh Hải)
Con đường huyết mạch của cuộc kháng chiến chống Mỹ nằm chon von theo những vách núi cheo leo, những vực sâu thăm thẳm, những cánh rừng già bạt ngàn. Nó chạy thẳng từ một không gian địa lý cụ thể vào lịch sử, văn chương và thơ ca. Gian khổ nhưng lạc quan, đau thương mà kiên định, những người lính Trường Sơn, những tiểu đội thanh niên xung phong vẫn luôn bám trụ cùng chia sẻ đạn bom với con đường. Quả thực với thơ chống Mỹ, Trường Sơn và con đường mòn mang tên Bác đã trở thành một đề tài lớn, một nguồn cảm hứng không nguôi cạn. Với người chiến sĩ lái xe, Trường Sơn ghi dấu trong họ bằng những kỷ niệm không phai mờ. Những tháng ngày tiếp nhận, vận chuyển đạn dược, vũ khí, lương thực, quân trang, quân dụng trên những tuyến đường rừng hay ở các mặt trận họ luôn phải đối mặt với nhịp độ đánh phá điên cuồng của không lực kẻ thù quyết chặn đường chi viện, tiếp tế của hậu phương miền Bắc cho chiến trường miền Nam. Khó khăn, gian khổ là thế nhưng họ luôn giữ được tâm hồn lạc quan, yêu cuộc sống, tin tưởng vào tương lai. Thiên nhiên của núi rừng Trường Sơn trong cảm nhận của những anh lính lái xe trẻ trung thật đẹp và nên thơ: “Có những rừng thông vào những tháng mùa khô đầy vẻ thơ mộng. Những hôm trời mát và sáng trăng xe chạy qua rừng, mùi thông thơm ngát, gió thổi thông reo thanh bình. Có anh ngồi trong cabin phì phèo điếu thuốc, mơ màng bóng hình một thiếu nữ với nón bài thơ nghiêng nghiêng mái đầu, làn tóc mây bay bay, tà áo trắng tinh khôi lùa theo chiều gió, hương bồ kết mát nhẹ vấn vương… lúc ấy tâm hồn người chiến sĩ lái xe nhẹ nhàng, thanh thản biết bao…”[6]. Thiên nhiên càng khắc nghiệt, địa hình càng hiểm trở, càng tạo hứng thú cho người chiến sĩ lái xe. Đây là cảm giác bay bổng trên con đường rừng khi xe vượt đèo:
…Đường lên miền Tây
Qua đèo anh Trỗi
Xe ta như bay
Trên ngàn đỉnh núi
Xe ta như nổi
Bồng bềnh trong mây…
(Đèo anh Trỗi - Trần Hữu Thung)
Những năm kháng chiến chống Mỹ, đèo anh Trỗi là một đoạn đường vòng đặc biệt, một cái nút trên con đường Q dài hơn 80 cây số do Đội thanh niên xung phong 25 phụ trách. Con đèo leo lên lưng một trái núi, xoắn hai vòng rồi vươn xuống, khúc khuỷu và quanh co, một bên là núi cao, phía kia là vực thẳm. Thực ra trên bản đồ quân sự con đường mang một tên gọi khác, nhưng với những con người từng bám trụ nơi đây, cái tên Nguyễn Văn Trỗi gần gũi và như tiếp thêm sức mạnh cho họ:
Đoàn xe Zin bốn chiếc
Bốn tay lái trẻ măng
Giữa mây chiều trắng đục
Vượt qua dốc Chà Vằn..
(Qua dốc Chà Vằn - Trúc Cương)
Câu thơ 5 chữ hóm hỉnh là lời kể của một chàng lính trẻ đang thảnh thơi sau những giờ ngồi bên vô-lăng, mình đẫm mồ hôi băng qua dốc lửa. Tuổi xuân, mồ hôi và cả xương máu của họ đã đổ xuống để giữ vững mạch máu giao thông đưa hàng vào mặt trận. Khi xe vượt những dốc cao hun hút, bên là “vực thẳm khôn chừng”, giữa không gian “bom đánh sụp cả rừng”, “cây thành than đứng yên” nhưng anh lái xe lại tưởng tượng như đang đi trên “đường trong mây trôi” để khi tới đỉnh ngửa mặt đón ngược gió thốc vào. Tinh thần lạc quan, ý chí ngoan cường kiểu ấy là đặc trưng riêng của một thế hệ trí thức trẻ hào hoa được lớn lên và học tập dưới mái trường của chế độ mới. Đó chính là sức mạnh giúp họ bước qua được những khoảng cách giữa sự sống và cái chết, coi thường ngay cả những thách thức, hoàn cảnh khắc nghiệt nhất. Tác giả Lê Đức Thọ khi dừng chân trên đèo Apông, nhìn “bụi Trường Sơn”, “tung lên từng khối”, “mù mịt một góc trời” mà tường tượng cả đoàn xe đang chìm trong biển bụi. Bụi nhuộm đỏ lá rừng, nhuộm hồng cây cỏ, phủ đỏ tóc con trai, con gái, chui vào lỗ tai, xông vào mũi, vào miệng… bụi vừa là bạn vừa là kẻ thù của con người sống ở Trường Sơn. Thơ viết ở chiến trường những năm chống Mỹ không thể thiếu hình ảnh khói bụi. Từ “lớp lớp bụi đường” phủ bạc đầu những “dũng sĩ lái xe trên Trường Sơn” trong thơ Đặng Tính đến “lá mai phủ bụi đất son” trong thơ Nguyễn Xuân Sanh rồi “quân đi sóng lượn nhấp nhô bụi hồng”, “bụi bay bụi đỏ lá rừng” trong thơ Tố Hữu hay “bụi Trường Sơn nhoà trời lửa” trong bài thơ Lá đỏ của Nguyễn Đình Thi… đã giúp người đọc hình dung được phần nào sự gian khổ của một thời “xẻ dọc Trường Sơn đi đánh Mỹ”. Như “lửa thử vàng, gian nan thử sức”, môi trường bom đạn đã thử thách và thanh lọc tâm hồn thế hệ. Giữa khói bụi chiến tranh, bản chất của anh bộ đội cụ Hồ càng rực sáng, trong suốt: Con suối gặp bom/ Con suối đục ngầu/ Con người gặp bom/ Con người trong suốt… (Niềm vui bám trụ - Trọng Khoát). Sống trong gian lao mà thơ của người lính vẫn tươi trẻ, trong sáng lạ thường. Họ chấp nhận hoàn cảnh như một điều hiển nhiên, thường hằng mà mọi người ai cũng phải trải qua: Tháng ngày mắc võng đỉnh Trường Sơn/ Mưa tuôn, đạn réo chí không sờn/ Cơm vắt, muối rang đời giải phóng/ Nhấp nhô võng nắng, rụng hoa vàng… (Bài thơ chiếc võng - Nguyễn Trọng Định). Câu thơ kể, có cảm giác chừng như hơi thậm xưng nhưng phải chăng, đó lại chính là những suy nghĩ thực nhất, chính thống nhất tạo nên sức mạnh không thể lý giải của cả một thế hệ trong suốt những năm đánh đế quốc Mỹ xâm lược ấy? Chiếc võng dù cũng như cây gậy Trường Sơn trở thành vật bất ly thân của người lính trên khắp các nẻo đường chiến dịch. Giữa cuộc hành quân, trong những phút nghỉ ngơi hiếm hoi người lính tranh thủ mắc võng và nhịp đong đưa nhịp nhàng như lời ru của đại ngàn đã kéo giấc ngủ đến với họ êm đềm như khi còn ở quê nhà. “Bộ đội đi rồi” nhưng những thân cây còn in hằn dấu võng. Không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ Thanh Hải lấy tên Dấu võng Trường Sơn cho cả tập thơ 32 bài của mình. Nỗi nhớ về đồng đội, về Trường Sơn được tác giả gửi gắm vào hình ảnh “vết hằn mắc võng in vào sâu trong thớ gỗ” cây rừng. Khám phá thú vị nhất của nhà thơ là tìm ra được đặc điểm của từng đối tượng nằm võng: người chỉ huy hay trằn trọc để “nghĩ nhiều phương án” thì “hai đầu dây” sẽ “in sâu, nằng nặng”; còn với những “người trai tri kỷ” trên “đường ra trận” khi “đọc chung thư nhà” họ sẽ chọn “một thân cây đôi” để “hai đầu võng dây chồng lên dây”... Bài thơ và cả tập thơ như một thông điệp Thanh Hải muốn gửi đến đồng đội, cả những lớp người tiếp bước đi sau, mỗi khi bắt gặp một đường vòng tròn trên thân cây hãy nhớ về quá khứ, những ngày tháng hào hùng của cuộc chiến.
Cũng giống như tác giả Thanh Hải, nhà thơ Anh Ngọc từng là một người lính Trường Sơn cũng có những kỷ niệm khó phai cùng chiếc võng dã chiến. Với ông, một “khoảng đất dưới võng” nhỏ bé mà linh thiêng, giản đơn mà không dễ gì quên được:
Có gì đâu một khoảng rừng con
Đất cằn cỗi mọc đầy gai góc
Có gì đâu một triền núi dốc
Võng bồng bềnh bên thấp, bên cao…
(Khoảng đất dưới võng - Anh Ngọc)
Cái cảm giác bồng bềnh, chông chênh trong giấc ngủ có lẽ chỉ những người lính từng “mắc võng trên rừng Trường Sơn” mới có được. Mỗi chiếc võng dưới một mái tăng là một thế giới riêng biệt, một “khoảng trời thu nhỏ”, ở đó cũng có sự sống với “lũ kiến tìm mồi trong cỏ” và cũng thật mộng mơ với “bâng khuâng cánh bướm nhớ khu vườn”. Thế giới tâm hồn của anh bộ đội Trường Sơn thật phong phú, sinh động vượt lên tất cả những tàn phá của đạn bom và gian khổ. Suốt “ba ngàn đêm nằm võng” dọc theo con đường hành quân ra mặt trận, đã có bao nhiêu “khoảng đất” họ dừng lại mắc võng để “gửi lại một giấc say?”, không ai làm phép tính ấy. Nhưng có một điều chắc chắn người lính nào cũng tâm niệm: họ đang sống và chiến đấu trên mảnh đất quê hương, họ sẵn sàng hi sinh tất cả để dành lại sự vẹn nguyên cho dáng hình tổ quốc, để gìn giữ muôn đời “dáng đứng Việt Nam”. Mỗi “khoảng đất dưới võng” họ nằm bỗng trở nên thiêng liêng biết nhường nào:
Có thể nào quên, những sáng lên đường
…Chào ngọn cỏ cánh hoa rừng ở lại
Chốn tình cờ phút chốc hoá yêu thương
Ta lại lên đường từ một góc Trường Sơn…
(Khoảng đất dưới võng - Anh Ngọc)
Câu thơ cuối vút lên như điệp khúc của một bản nhạc quân hành - sức mạnh để đối mặt với kẻ thù chính bắt nguồn từ những điều giản dị nhất. Một giấc ngủ ngon trên con đường ra trận là tín hiệu của thắng lợi, là động lực lớn hướng niềm tin về phía trước:
Võng ta nằm thao thức bên nhau
Giấc ngủ sâu tắm đoạn đường nóng bỏng
Mặc bom Mỹ cắn vào đêm mơ mộng
Con suối dài cứ hát để đi xa…
Nhà thơ Hữu Thỉnh với Giấc ngủ trên đường ra trận đã vẽ bằng ngôn ngữ rất thành công bức chân dung tinh thần phong phú của người lính. Có lẽ con người hiền lành và “vô vi” nhất khi ngủ ngay cả trong một hoàn cảnh bất thường nhất - chiến tranh. Là bom đạn, mưa rừng, lũ núi, những đèo nặng, dốc cao, ngay cả “cái vấp cũng găm thành nỗi nhớ” vậy mà tất cả “khi vào giấc ngủ” lại “cứ hồn nhiên như sau buổi chăn trâu”. Chúng ta có thể thấy rằng, giá trị của con người được đặc biệt đề cao, được chú ý khám phá trong những năm kháng chiến chống Mỹ. Anh bộ đội, cô dân công trở thành hình tượng trung tâm của văn học nói chung và thơ ca nói riêng. Bao giờ cũng vậy, hình tượng văn học phản ánh chính tính thời sự nhạy bén của một nền thơ chiến đấu. Chủ thể sáng tạo - những thi sĩ cầm súng luôn có sự gắn bó máu thịt giữa tâm hồn và hiện thực, thơ nói chính trị, nói sự kiện mà có sức lay động sâu xa: Trường Sơn - đèo vút cao vượt trên mấy gió/ Đạp nát đá tài mèo bằng sức pháo nghìn cân/ Đi ta đi! những trai làng Phù Đổng/ Gì vui hơn đường ra trận mùa xuân… (Bài ca Trường Sơn - Gia Dũng). Nhà thơ đã gắn mình làm một với quần chúng bằng cả trái tim khối óc, đã vui sướng được hoà vào biển người trên “đường ra trận mùa xuân”. “Ra trận” là một chủ đề “nóng” của thơ chống Mỹ. Đại thi hào Johann Wolfgang Goethe từng nói “Bài thơ nào cũng là bài thơ thời sự” với ý nhấn mạnh rằng thơ ca luôn gắn chặt với những diễn biến của thực tại xã hội. Hiện thực gần với thơ và thơ là một phần của hiện thực. Tư thế “đạp nát đá tai mèo bằng sức pháo nghìn cân” chỉ có ở anh bộ đội chống Mỹ giản dị và đường hoàng, tự tin và kiêu hãnh. Khi “bước chân trên dải Trường Sơn” không một người lính nào cảm thấy mình lạc lõng bởi đây là cuộc hành quân cả nước và “những con đường làm nên sự sống” đều mang “đầy hương vị quê hương”...
Thơ viết về chiến tranh không thể thiếu lửa đạn khói bom, cũng như thơ về Trường Sơn không thể không nhắc đến những địa danh dốc đèo. Những tên đất, tên núi, tên sông luôn luôn vang vọng trong thơ càng thắm thiết với người đọc vì nó gắn liền với những chiến thắng. Những tên đèo, tên dốc Trường Sơn qua ngôn ngữ nghệ thuật và bằng lối biểu hiện lãng mạn, xúc động của riêng thơ đã thấm đượm không khí trang trọng của lịch sử. Thơ về Trường Sơn trong kháng chiến chống Mỹ đã thực hiện thành công một nhiệm vụ đặc biệt ý nghĩa đó là ghi lại bằng ngôn từ thi ca một giai đoạn lịch sử không thể nào quên. Trường Sơn khốc liệt đạn bom và những vần thơ cùng hành quân với người lính lên những trọng điểm lửa, những cung, những cua tử thần: đỉnh 700, đèo Pa Pông, dốc Chà Vằn, Khe Sanh, cửa gió Tùng Chinh, dốc Khỉ, đỉnh Năm Thang, PuLaiLeng, đường 20... Tiếng nổ của hàng trăm loại đạn, chớp lửa của pháo sáng, của bom dội vào từng câu chữ :
Xe ta đã quen đi trong đêm
Dưới ánh sáng xanh xao đèn dù
Dưới làn đạn đỏ lừ trời đồng đội ta bảo vệ…
(Xe ta đi ban ngày - Nguyễn Hoa)
Đạn bom có thể đào rừng, xẻ núi nhưng không thể lay chuyển được ý chí và lòng quyết tâm của con người. Mọi sinh hoạt vẫn âm thầm diễn ra dưới tán lá rừng, gian khổ, thử thách là thước đo giá trị con người. Đây là bức tranh về đội thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước Cù Chính Lan Vác gạo qua dốc Khỉ:
Lấy vai mở lối cho gạo lên
Ta căng sức người qua dốc Khỉ
Tiếng hò bay trên tiếng thác gầm
Xốc cánh tay người đưa gạo lên…
(Vác gạo qua dốc Khỉ - Lê Điệp)
Đèo và dốc Trường Sơn đặt ra những khó khăn cho con người nhưng cũng nhờ vậy mà sức mạnh của họ được bộc lộ. Sức người chọi với sức tự nhiên, tiếng hò tải gạo vượt át cả tiếng thác gầm. Thế giới của Trường Sơn âm u, hùng vĩ được khám phá từ các góc độ trong mọi hoàn cảnh, nhất là trong những hoàn cảnh bộ đội, thanh niên xung phong cùng chung chiến hào để vừa “phá núi mở đường”, “băng rừng tải đạn, lương thực, thuốc men” vừa chiến đấu. Dường như có một sợi dây liên lạc vô hình giữa thiên nhiên và những nhà thơ chiến sĩ, ngọn súng của họ để chiến đấu với kẻ thù, còn ngòi bút thi nhân lại để chấm phá những vẻ đẹp linh diệu của núi rừng. Khi miêu tả cái khốc liệt của chiến tranh, các tác giả thường sử dụng những hình ảnh thơ gắn với màu đỏ: đường đỏ Trường Sơn, bụi đỏ, lá đỏ, vùng đất đỏ, canh rau dền đỏ, ánh đèn đỏ... màu đỏ là màu máu của các thế hệ người Việt Nam đã đổ xuống trên hai sườn núi, là màu cờ tổ quốc, màu của dự cảm chiến thắng, của niềm tin vào tương lai rực rỡ, huy hoàng. Còn khi chấm phá về vẻ đẹp của thiên nhiên Trường Sơn các tác giả lại vẽ ra trước mắt chúng ta những bức tranh nên thơ và đầy chất nhạc. Trường Sơn, mây núi mờ xa, thiên nhiên giao hoà được cảm nhận bằng những hồn thơ rất trẻ:
Mây ơi, Trường Sơn có bao nhiêu dòng suối
Suối là biên giới xanh của hai quả đồi
Suối là sông của xóm thôn bộ đội
Cô bộ đội, cô thanh niên xung phong
Thả tóc lượn giữa dòng nước trong …
(Suối - Vũ Chí Thía)
Sống ở rừng, mà mấy người hiểu hết được rừng, người lính bước vào cuộc chiến bằng câu hỏi ngây thơ đến kỳ lạ. Hỏi suối của Trường Sơn chính là tác giả khao khát được khám phá đời sống sinh hoạt nơi đây. Chiến trường mở ra trước mắt người lính trẻ vừa bí hiểm, vừa gần gũi là “biên giới xanh” cũng là “xóm thôn bộ đội”. Dòng suối con sông nơi đây từng gắn bó với biết bao chiến công và kỳ tích, cảm hứng của những bài thơ luôn bắt nguồn từ sự ngợi ca, chiêm ngưỡng. Ai đã từng say sưa theo dòng chảy của con suối La La gắn với tên của người anh hùng Bùi Ngọc Đủ, hoặc nghiêng mình cảm phục trước hình ảnh người lái đò tên gọi A Sanh trên dòng sông Pô Kô huyền thoại mới hiểu được vì sao người ta gọi sông Đắc-Krông là bầu sữa vô hạn mà núi rừng Tây Nguyên dâng tặng cho mặt trận.
Đến với Trường Sơn trong những ngày đánh Mỹ đâu chỉ có lớp lớp người trẻ, các thế hệ nhà thơ của giai đoạn trước cũng hồ hởi hành quân. Ở họ chất chiêm nghiệm, suy tư về hiện tại, quá khứ và tương lai luôn là đặc điểm nổi bật. Nhà thơ Huy Cận chấm phá những nét cơ bản của một Trường Sơn chiến đấu sâu sắc mà không kém phần thơ mộng:
Thung lũng Trường Sơn thung lũng trăng
Hố bom như nốt chân hà ăn
Khổng lồ ấy dấu chân ai bước
Chắc hẳn Thạch Sanh đánh đại bàng…
(Trường Sơn chấm phá - Huy Cận)
Với Chế Lan Viên - nhà thơ của những triết lý về cuộc sống, về con người thì Trường Sơn lại được vẽ ra bằng những cánh bướm muôn màu, gần mà xa, bình thường đấy mà có một sức ám ảnh lâu bền:
Cả một mùa xuân theo bóng xe
Cánh trắng, cánh vàng đậu vào tay lái
Nhớ quê hương đâu có thể quay đầu lại
Ép một con bướm Trường Sơn mà gửi thư về…
(Bướm Trường Sơn - Chế Lan Viên)
Những cánh bướm của núi rừng đã bay vào trang thơ, đã đậu lên nốt nhạc trầm hùng của những bài ca về Trường Sơn và đó là biểu tượng về vẻ đẹp, sức sống của thiên nhiên và con người vượt lên tất cả sự tàn phá của bom đạn kẻ thù. Hồi ức của những cựu thanh niên xung phong Trường Sơn còn ghi lại rằng: Rất đông trong số các nữ giao liên mặt trận là những cô gái người Hà Nội. Sau những trận sốt rét rừng, các cô thường ra bờ suối ngắm nhìn bướm bay và nuôi dưỡng một niềm tin vững chắc rằng làm như vậy các cô sẽ gặp được mùa xuân ở quê nhà. Mà mùa xuân Hà Nội thì bao giờ cũng rực rỡ, nó đến sớm hơn và đi cũng muộn hơn...
Khám phá hình tượng Trường Sơn trong thơ chống Mỹ chúng ta mới phần nào hiểu được sức mạnh tinh thần của con người Việt Nam trong những năm tháng ấy. Vượt lên bom đạn, hi sinh là tiếng hát, nụ cười của cả một dân tộc đang chiến đấu và tự tin cầm chắc chiến thắng. Ở những nơi gian khổ và nguy nan nhất, thơ vẫn vút lên tiếng hát ấy, nụ cười ấy. Một chủ nghĩa lạc quan cách mạng đã thấm nhuần sâu sắc vào tâm hồn các thế hệ cùng hành quân ra mặt trận. Thơ đã thể hiện một niềm vui từ bên trong trái tim con người đánh Mỹ, hồn nhiên mà không dễ dãi:
Tâm hồn ta lộng gió xôn xao
Nghe đất nước rì rào ca hát
Nhìn sông núi dưới trăng bát ngát
Chưa đêm nào đẹp như đêm nay…
(Tâm sự người chiến sĩ pháo binh Trường Sơn - Diệp Minh Tuyền)
Thật khó có thể tưởng tượng được rằng, chính anh lính pháo binh mộng mơ trong bài thơ này vừa mới trải qua một cuộc vật lộn sinh tử với bom đạn kẻ thù. Những giây phút thảnh thơi ngay giữa chiến trường, thiên nhiên là tặng vật vô giá cho con người. Mọi vẻ đẹp của một đêm trăng bát ngát, lồng lộng gió giữa non ngàn như gột sạch đi những gian lao mà người chiến sĩ phải trải qua. Tinh thần lạc quan ấy biểu hiện trong muôn vàn sắc thái phong phú, đa dạng. Nó là điệu bộ nghịch ngợm, thanh thản vô tư của người lính trong giây phút yên bình hiếm hoi giữa hai đợt bom đạn:
Mấy chàng lính trẻ măng tơ
Nghêu ngao gõ bát hát chờ cơm sôi…
(Nước non ngàn dặm - Tố Hữu)
Tiếng cười lạc quan là một nét đặc sắc của tâm hồn Việt Nam thể hiện trong văn học qua các thời kỳ như một biểu hiện của sức sống và sức chống chọi dẻo dai của dân tộc trước mọi thách thức. Trong thơ kháng chiến chống Pháp ta đã gặp nhiều tiếng cười vui của cánh lính trẻ. Nhưng phải đến thời kỳ chống Mỹ, khi cả “dãy Trường Sơn dường đứng dậy” lập nên những kỳ tích chưa từng có trong lịch sử, ta mới có một tiếng cười hồ hởi, tràn đầy và có ý thức sâu sắc đến thế trong thơ: Mỗi trang thơ đều dội tiếng ta cười (Chế Lan Viên). Đọc thơ ta bắt gặp tiếng cười hăm hở trên đường ra trận với súng nhỏ súng to/ chiến trường chật chội/ tiếng cười hăm hở/ đầy sông đầy cầu... (Chính Hữu), đó là tiếng cười hồn nhiên, tinh nghịch của các cô thanh niên xung phong đắp đường trong đêm Trường Sơn với Cái miệng em ngoa cho bạn cười giòn trong thơ Phạm Tiến Duật. Ở Trường Sơn, giữa tiếng rền vang của hàng trăm loại bom đạn, tiếng cười vẫn vang lên trong sáng và tươi xanh như sự sống, như niềm vui không có gì huỷ diệt được:
Ở đây chỉ tiếng bom là đục
Còn tiếng cười thì nghe rất trong
(Một người anh hùng - Ngô Văn Phú)
Có lẽ tiếng cười và giọng điệu lạc quan vượt lên hoàn cảnh chính là âm hưởng chủ đạo của thơ chống Mỹ về đề tài Trường Sơn. Không phải vô cớ mà Ban chung khảo cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1972 - 1973 đã hoàn toàn nhất trí nhận định: “Ra đời trên chiến trường bom đạn ngút trời vậy mà thơ gửi về dự thi phản ánh khá đúng cái mức độ khốc liệt đó, đọc lên vẫn cứ tươi và xanh đến lạ lùng…”[7]. Phải chăng chính ở nơi “sống chết từng giây mưa bom bão đạn” ấy, tâm hồn Việt Nam chiến đấu càng “ngọt ngào qua muôn nỗi đắng cay”. Với cá nhân, nụ cười sẽ làm sáng một khuôn mặt, với đất nước nụ cười lạc quan sẽ dẫn lối đến tương lai và với địa danh Trường Sơn trong kháng chiến, tiếng cười đã xua tan bao lớp khói bom, làm dịu lại những vạt rừng đã cháy, tiếp thêm sức mạnh cho những tiểu đội thanh niên xung phong, những đoàn quân và cả những đoàn xe trùng trùng hướng ra mặt trận...
Trường Sơn - Sợi nhớ, sợi thương!
Trong hành trang của người lính ra trận có tiếng gọi tha thiết của tiền tuyến, của nhiệm vụ, đẹp hơn là tình yêu nơi hậu phương của người “em gái” anh mang theo như một “lá bùa hộ mệnh”. Trường Sơn đâu phải chỉ có đèo cao - vực thẳm, bom đạn và những sự hi sinh, mất mát; Trường Sơn còn là mảnh đất của sự sống, của tình yêu, nơi rừng núi đã có biết bao mối tình chớm nở. Trong thơ chống Mỹ viết ở Trường Sơn “...thế giới nhân vật luôn có sự hiện diện của cặp đôi nam nữ: anh chàng bộ đội và cô gái thanh niên xung phong. Họ là gương mặt tình yêu, là những nhân vật chính của đời sống chiến trường”[8]. Những năm tháng cả dân tộc đặt sự nghiệp chung lên trên tất cả, tình yêu lứa đôi được đặt trong tình yêu Tổ quốc; hạnh phúc cá nhân được gác lại để thực hiện vẹn toàn nghĩa vụ lớn. Thơ tình yêu viết ở Trường Sơn được rọi sáng dưới luồng tư tưởng chủ đạo ấy, đó là những mối tình đẹp nhưng thoảng qua và bao giờ cũng để lại niềm tiếc nuối. Anh bộ đội hành quân gặp em - cô thanh niên xung phong, cùng nhau sẻ chia những gian khổ, hiểm nguy giữa bom đạn. Họ tìm thấy nhau giữa hoàn cảnh khốc liệt để tình yêu cũng từ đó mà nảy nở tự nhiên, mãnh liệt như chính những mầm sống của núi rừng vẫn vươn cao dưới tầm đạn lửa: Kỷ niệm về em cô gái Trường Sơn/ Kỷ niệm về em, cô gái giao liên/ Ngày chiến tranh em như đoá hoa rừng Trường Sơn, em như cánh chim rừng Trường Sơn cho anh trao mối tình đầu... - nhạc sĩ Vũ Hùng đã mở đầu ca khúc Kỷ niệm mối tình đầu như vậy. Đến với Trường Sơn, cả anh bộ đội và em gái giao liên đều còn rất trẻ, ở lứa mười tám, đôi mươi do vậy những rung động cảm xúc, mối tình đó chớm nở là mối tình đầu. Tình yêu được thử thách bằng thời gian của sự huỷ diệt với bom đạn và bệnh sốt rét rừng, là tình yêu bền chặt có sức ám ảnh lâu dài nhất. Tình yêu ấy là “sợi chỉ xanh óng ánh” trải qua biết bao nhiêu sự tàn phá của bom đạn cũng không thể đứt, chẳng hề thay đổi. Hoàn cảnh của cuộc chiến thật trớ trêu: hai người cùng được sống trên mình một quả núi nhưng khoảng cách lại được đo bằng không gian xa thẳm ở “hai đầu nỗi nhớ”. Với tâm hồn người con gái nỗi nhớ được “hữu hình hoá” thành “sợi nhớ, sợi thương” nối liền hai dải Trường Sơn Đông và Trường Sơn Tây. Bài thơ Sợi nhớ sợi thương của nữ thi sĩ Thuý Bắc (em gái nhà phê bình Hoài Thanh) sáng tác năm 1973 là sự khẳng định một tình yêu bất tử, ở đó ta thấy được độ mênh mông của trái tim cô gái với Rợp trời thương/ Màu xanh suốt/ Em nghiêng hết/ Về phương anh... Bình luận về bài thơ này, nhà thơ chiến sĩ Anh Ngọc đã có những cách tiếp cận rất đặc sắc và độc đáo. Ông cho rằng, hầu hết mọi chi tiết của bài thơ với tổng số 66 từ đều diễn ra trong tưởng tượng, như ta thường quan niệm “đó là cảnh trong giấc mơ”. Những hành động cụ thể như: dang tay, xòe tay, xua, che, rút, chằm, đan, nghiêng… đã không còn mang ý nghĩa hiển ngôn vốn có mà nó tạo nên sức gợi liên tưởng sâu sắc bởi những hình ảnh thơ đều là tưởng tượng, hư ảo và nằm ngoài tầm chi phối của những hành động ấy. “Ta có thể hình dung nhân vật trữ tình ở đây trong tư thế bất động, mắt nhắm hay mở to, nhìn mà không thấy gì cả, và đối lập với sự yên tĩnh bề ngoài, trong tâm hồn người phụ nữ này là một đại dương đang nổi sóng - lớp lớp những ao ước, khát khao nối nhau kéo đến… Những mơ ước, khát khao đó đều khác thường, đều to lớn, to lớn đến mức chỉ có thể diễn ra trong tâm tưởng và cũng chỉ trong tâm tưởng chúng mới có thể được giải quyết, được thỏa mãn: Từ việc lấy tay xua tan mây, lấy tay che mặt trời, lợp mái, đan vòm để che trời, đến cao trào của sức tưởng tượng ấy là nghiêng sườn núi để che mưa, che nắng cho người yêu… một hành vi phi lý, đương nhiên, nhưng vẫn bám được vào cái gốc thực của hình tượng bởi hình ảnh sườn núi vốn gợi tới một mái nhà...”[9]. Có thể thấy rằng, bằng những hình ảnh có nguồn gốc thực, nhà thơ đã thi vị hóa để diễn đạt cái hư, lại dùng cái hư đó để nói cái thực sâu xa của tâm hồn người con gái đang “sống” trong thế giới tình cảm của riêng mình hòa nhịp chung cùng cuộc trường chinh, kháng chiến của dân tộc. Bút pháp hướng nội của Sợi nhớ sợi thương dù có chút khác biệt so với một số bài thơ của các tác giả hiện thời nhưng lại có giá trị “phản ánh hiện thực độc đáo” - đó là hiện thực tâm hồn đẹp, cao thượng, vị tha và đầy hy sinh của những người phụ nữ Việt Nam trong kháng chiến. Giai điệu tình yêu lứa đôi hòa quyện cùng tình yêu Tổ quốc bừng sáng từ những ý thơ và có cảm giác như được vút lên từ cả sườn Đông và sườn Tây của dãy Trường Sơn hùng vĩ.
Thơ của các nhà thơ nữ viết về tình yêu vốn đã hay, thơ tình yêu viết ở chiến trường lại càng cảm động. Họ nghĩ về nhau trong những phút gian nan nhất:
Giây phút này em nghĩ về anh
Em chợt hiểu: Chính mình mình chưa biết!
Giữa lúc chống kẻ thù, cái chết
Mình mới đi được hết lòng mình…
(Viết trên đường 20 - Xuân Quỳnh)
Những tâm sự dịu dàng, tha thiết của cô thanh niên xung phong là tiếng lòng của cả một thế hệ những người trẻ cầm súng, cầm cuốc, xẻng hăng say chiến đấu ở Trường Sơn một thuở. Họ dành tất cả tình cảm, sức lực và trí tuệ để cống hiến cho cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc nhưng lắng sau tất cả, họ vẫn không quên tuổi của mình, luôn sống thật với bản thân bởi họ là những con người còn rất trẻ, sống không thể thiếu tình yêu và khát vọng. Sự kết hợp nhuần nhị giữa cái chung và cái riêng, giữa tình cảm và nhiệm vụ giúp họ có một nhận thức đúng đắn, phù hợp với hoàn cảnh đất nước trong những năm tháng đó: Tên sông núi trở thành tiếng gọi. Như tên anh với em thành nỗi đợi. Và chính cô gái nhắn nhủ đến người yêu của mình:
Dẫu nhớ em xa quá không gian
Chớ thương em một mình vất vả
Em ở đây bạn bè đông đủ cả
Anh đi con đường này không anh?..
(Viết trên đường 20 - Xuân Quỳnh)
Trong cuộc trường chinh chống Mỹ mấy mươi năm, đã có biết bao lứa đôi phải gác lại tình riêng, phải chịu đựng sự xa cách để người thương hoàn thành nhiệm vụ với Tổ quốc. Tâm sự và cũng là lời nhắn nhủ của người con gái “Dẫu nhớ em…” thì “Chớ thương em... vất vả” như một điệp khúc trầm lắng, thiết tha, góp phần làm sáng lên phẩm chất của người phụ nữ và giá trị nhân văn cao cả Việt Nam: khiêm nhường, giản dị, dịu dàng, vị tha, trung hậu nhưng kiên cường, chịu thương chịu khó. Đúng như lời khẳng định của nhà phê phê bình Lý Hoài Thu mà chúng tôi đã dẫn ở trên, thế giới nhân vật trong thơ kháng chiến viết về Trường Sơn thường không thể thiếu hình ảnh người phụ nữ, đó là những “bông hoa ngát hương” của núi rừng, là “người em gái kiên chinh” đã dâng hiến cả tuổi xuân cho tổ quốc. Những hình tượng thơ đẹp nhất, lãng mạn nhất dành cho em, cô thanh niên xung phong, cô gái giao liên mở đường:
Gặp em trên cao lộng gió
Rừng lạ ào ào lá đỏ
Em đứng bên đường như quê hương
Vai áo bạc quàng súng trường...
(Lá đỏ - Nguyễn Đình Thi)
Đạn bom càng ác liệt, con người càng gan góc, ở đây hoàn cảnh đóng vai trò như phông nền để tôn lên vẻ đẹp của hình tượng con người. “Em” là trung tâm của bức tranh “màu nóng” rực sắc đỏ của lá rừng, của đạn lửa. Tư thế của cô thanh niên xung phong đứng bên đường như quê hương/ Vai áo bạc quàng súng trường mang vẻ đẹp vừa hiên ngang, vững chãi, vừa chân mộc, giản dị. Chúng ta đã gặp trong thơ chống Mỹ nhiều thế đứng của con người Việt Nam, như: dáng đứng của anh giải phóng quân trên đường băng Tân Sơn Nhất tạc vào thế kỷ trong thơ Lê Anh Xuân; rồi tư thế của O du kích nhỏ giương cao súng/ Thằng Mỹ lênh khênh bước cúi đầu trong thơ Tố Hữu... Và với nhà thơ Nguyễn Đình Thi khắc họa thì dáng đứng “như quê hương” của “em gái tiền phương” cũng là một hình ảnh tiêu biểu, đặc trưng, sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Hình ảnh đó cũng là tâm điểm nổi bật giữa rừng Trường Sơn ào ào lá đỏ, như một dấu son lịch sử. Ở bài thơ Không nói được nhà thơ Nguyễn Đình Thi sáng tác trước đó một thời kỳ cũng kể lại cuộc gặp gỡ của anh và em “trong mưa bay” nhưng buồn tĩnh lặng và chông chênh hơn. Ngôn ngữ giao cảm của người con trai và người con gái từ Không nói đến Lá đỏ đã có sự biến đổi về chất từ không đến có, từ buồn sang vui, từ sự nghi ngờ vu vơ thành niềm tin và sự lạc quan về tương lai. Đặc biệt hình ảnh lá đỏ tạo cảm giác mạnh, mang ý nghĩa biểu trưng cho những dự cảm, dự báo về thắng lợi tất yếu của dân tộc. Chàng thi sĩ của những mối tình mang sắc màu “thơ Mới” đã nhường chỗ cho tâm hồn một thi nhân chiến sĩ. Ấn tượng lớn nhất mà bài thơ để lại là đôi mắt trong với nụ cười của người con gái trên nền bức tranh “bụi Trường Sơn nhoà trời lửa” - vừa khốc liệt, dữ dội mà tươi vui, trẻ trung kỳ lạ. Dáng vóc, tư thế của người phụ nữ nói riêng, của con người Việt Nam nói chung trong những năm chống Mỹ đẹp đến lạ kỳ. Nhận xét của nhà phê bình Vũ Quần Phương rất xác đáng: “Cái giỏi của các nhà thơ thế hệ chống Mỹ không phải ở chỗ đưa thực tế vào thơ như mọi người đã tưởng. Mà giỏi ở chỗ từ những chi tiết bề bộn, những sự kiện rậm rịt của đời sống, họ đã nhìn ra chất thơ trong đó…”[10]. Trong Lời giới thiệu của Tuyển tập thơ Việt Nam 1945 - 1960, nhà thơ Xuân Diệu khi phân tích các sự kiện lịch sử trong thơ đã đánh giá: “…thực tại ùa vào thơ, chiếc thuyền thơ cũng tỏ ra rất tài tình, nó chuyên chở bao nhiêu người thật, việc thật của cuộc sống cách mạng mà vẫn bơi chèo rất có duyên và đỗ bến khá viên mãn…”. Với hiện thực của cuộc kháng chiến chống Mỹ lúc ấy, thật khó để hậu thế mong muốn ở thơ chống Mỹ những bút pháp nghệ thuật điêu luyện, tài tình, có sự dụng công và trau chuốt bởi hoàn cảnh thực tiễn hạn chế các nhà thơ làm điều ấy. Bối cảnh đó, đúng như cách nói của nhà thơ Nguyễn Hữu Quý, một người lính đã từng có nhiều năm tháng lăn lộn ở Trường Sơn: “Các nhà thơ chân chính luôn bị cuốn hút vào tâm bão thời đại; quá trình giác ngộ, hành động cách mạng cũng là quá trình nhận thức, sáng tạo văn học trên tinh thần yêu nước, yêu cuộc sống nồng nàn. Và, điều kỳ diệu đã đến: Người cầm bút trở thành chiến sĩ, chiến sĩ trở thành người cầm bút; đội ngũ nhà thơ mang áo lính trở nên đông đảo, họ vừa đánh giặc vừa làm thơ “ghi lấy cuộc đời mình”...”[11]. Đến với Trường Sơn, đối mặt với gian khó và sự hi sinh ta mới thấy hết phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam, thơ ca trong những năm tháng ấy đã kịp “xây” những tượng đài bằng ngôn từ để ca ngợi họ. Đó là chiến công của mười cô thanh niên xung phong tuổi mười tám, đôi mươi cùng nằm lại ở ngã ba Đồng Lộc, là ý chí thép của tiểu đội giao liên quanh năm bám trụ trên đèo Pa Pông, làm bạn với mây gió, trăng và bom đạn:
Em sửa đường trên đèo Pa Pông
Từng nhát cuốc có mây vào quấn quýt
Trăng rất gần suối thì xa tít
Em ở trên này như trên cung mây…
(Vầng trăng trên đèo Pa Pông - Trần Nhương)
Những cuộc gặp với em - cô thanh niên xung phong, dẫu thoáng qua luôn gieo vào lòng những người lính trẻ biết bao cảm xúc: Em đứng gác đường miệng cười bỡ ngỡ/ Môi em nở hiện một vầng trăng nhỏ/ Thắp giữa đỉnh đèo tỏa sáng đêm đêm... Giọng thơ lạc quan đã che lấp toàn bộ những khó khăn của thực tại. Thiên nhiên như giao hoà, quấn quýt với từng việc làm và hành động của con người. Ta có cảm giác tác giả đang kể chuyện về những nàng tiên ở cõi nào xa lắm chứ không phải là các cô gái mở đường trên trọng điểm lửa Ba Pông - những nữ anh hùng thầm lặng đã dâng hiến cả một thời trăng “trinh nữ” vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Những người lính lái xe Trường Sơn tin rằng ở bất cứ cung đường nào có các cô gái thanh niên xung phong cắm chốt là nơi ấy được an toàn, được soi sáng ngay cả trong đêm sâu. Vành trăng trên đèo Pa Pông là hình ảnh ẩn dụ, tác giả gọi tên những cô gái trên đèo, ví họ như vầng trăng, như ánh sao làm nhiệm vụ “soi sáng đường chiến sĩ dưới đèo mây” (thơ Nguyễn Đình Thi).
Thật hiếm có dân tộc nào mà vai trò của người phụ nữ trong chiến tranh lại được khẳng định mạnh mẽ như ở Việt Nam. Họ ra trận giữa tuổi xuân phơi phới: Lúm đồng tiền đôi má/ Mắt trong veo mười tám/ Miệng cười duyên đôi mươi... (Em gái giao liên Trường Sơn - Trịnh Đình Khôi). Và rồi, họ đã tình nguyện đem cả tuổi trẻ dâng tặng cho Trường Sơn kháng chiến, có những cô gái không bao giờ về nữa:
…Cô gái… đã không bao giờ hát nữa
Cô nghỉ lại trên đồi đầy hoa mua nở
Tóc ruổi dài theo hướng gió đêm đêm…
(Phía bên kia đèo - Thuý Bắc)
Các nhà thơ nữ ghi lại kỷ niệm của một thời sống ở lưng đèo thật sâu sắc và cảm động. Nhớ về đồng đội điều đầu tiên họ nghĩ tới là tiếng hát, lời ca “vang động cây rừng”. Với những cô giao liên tuổi đời còn rất trẻ, ca hát là một nhu cầu tinh thần không thể thiếu. Họ hát khi phá bom, vượt đèo đưa xe qua trọng điểm, hát khi vui , lúc nghỉ ngơi hay những lúc nhớ nhà. Có anh lính hành quân trong đêm nghe tiếng hát mà dừng chân tự hỏi “phải chăng em cô gái mở đường, chưa thấy mặt người chỉ nghe tiếng hát”. Một khi “cô gái đã… không bao giờ hát nữa!” tức là nhà thơ đã gửi gắm nỗi đau qua thông báo về sự hi sinh của đồng đội. Đất mẹ Trường Sơn ôm các cô vào lòng, sắc tím hoa mua trên “đồi nắng gió” bao bọc hồn cô, để mái tóc dài vẫn đêm đêm “ruổi” theo hướng đoàn xe hướng ra mặt trận. Cùng với nhịp thở gấp gáp của chiến trường, những cô gái thanh niên xung phong Trường Sơn không chỉ làm nhiệm vụ phá đá mở đường, họ lãnh bất cứ một công việc nào dù là nặng nhọc đến mấy. Họ thay xe tải hàng, tải đạn ra trận. Trường Sơn ngày ấy có cả một đại đội nữ vận tải:
Ba lô căng phồng. Nặng trĩu đôi vai
Lên đỉnh dốc lúc hoàng hôn đỏ ối
Mặt trời xuống thấp hơn đội hình con gái
Hắt lên nền trời những mái tóc tung bay…
(Trên đỉnh dốc năm thang - Mai Văn Hai)
Bài thơ ra đời từ một kỷ niệm không quên của tác giả trên cao điểm 050 ở Trường Sơn trong những năm 1970. Nhà thơ hoàn toàn bị chinh phục bởi đội hình và sức vóc công việc của những người phụ nữ vốn xưa chân yếu tay mềm. Chính những người chị, người em trong “đội hình con gái” trên cao điểm Năm Thang cũng như bao tập thể nữ thanh niên xung phong ở Trường Sơn ngày đó đã dạn dày chịu đựng nhiều gian nan, cực nhọc, chịu nhiều mất mát hi sinh để hoàn thành nhiệm vụ một cách dũng cảm, phi thường. Số lượng hàng gùi trên đôi vai, tấm lưng bé nhỏ của họ mỗi lúc một tăng theo độ ác liệt của chiến trường. “Có ngày có người gùi cõng trên vai hơn 60kg hàng, nặng gần gấp đôi trọng lượng cơ thể họ...” (theo phim tài liệu Trường Sơn). Và cũng thật bình dị, đáng mến, đáng yêu những cô gái ấy, sau những giờ phút vượt qua mưa bom, lửa đạn, sau những cung đường hành quân vất vả, lại cười vui, lại lấy lược chải tóc và cùng nhau ca hát. Tiếng hát giữa rừng sâu thật trong trẻo, hồn nhiên như chính tấm lòng của họ với quê hương đất nước...
Trường Sơn, địa danh huyền thoại, con đường huyết mạch của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã trở thành niềm tự hào của cả dân tộc, là biểu tượng cho chủ nghĩa yêu nước và ý chí quyết chiến quyết thắng để thống nhất non sông. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã lùi xa tròn nửa thế kỷ, Trường Sơn bây giờ đã khác xưa, những vết thương đã dần kín miệng, những khoảng rừng cháy trụi năm nào giờ đây đã xanh trở lại, nhưng trong tiềm thức của những nhà thơ cựu chiến binh từng một thời ôm súng “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” thì kỷ niệm về Trường Sơn chắc chắn vẫn còn mãi. Và trong thơ chống Mỹ, hình tượng Trường Sơn vẫn luôn rực sáng bởi ở đó chúng ta sẽ tìm thấy vẻ đẹp nhuần nhị của con người giữa cái lặng thầm của bình yên và cái dữ dội của máu lửa do bối cảnh lịch sử tạo nên. Cùng chiêm ngưỡng lại hình tượng Trường Sơn trong “bức tranh đa sắc” của nền thơ chống Mỹ đúng vào dịp chuẩn bị kỷ niệm 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2025), chính là một lần chúng ta nhắc nhớ về vẻ đẹp tâm hồn và giá trị nhân văn cao cả của thế hệ trẻ nói riêng, con người Việt Nam nói chung trong những năm kháng chiến chống Mỹ, một biểu hiện của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam vốn có truyền thống tự ngàn đời nay./.
N.M.T
[1] Nhiều tác giả (1979), Văn học Việt Nam chống Mỹ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.152.
[2] Mai Nam Thắng (2015), Một giai đoạn rực rỡ trong tiến trình thơ ca Việt Nam hiện đại, báo Quân đội nhân dân cuối tuần, số ra ngày 16/12/2015.
[3] Hoàng Khôi (1984), Ngàn dặm Trường Sơn, Nxb Văn hóa, Hà Nội, tr.97.
[4] Nguyễn Anh Sơn (2019), Thơ ca Trường Sơn nâng bước những đoàn quân, báo Quân đội nhân dân, ngày 16/5/2019.
[5] Nhiều tác giả (1998), Nhà văn quân đội (kỷ yếu và tác phẩm), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr.98.
[6] Phan Hữu Đại (1999), Trường Sơn ngày ấy, Nxb Thanh niên, Hà Nội, tr.147.
[7] Nhiều tác giả (1979), Trường Sơn thơ văn chọn lọc 1959 - 1979, Nxb Văn học, H, tr 89.
[8] Lý Hoài Thu (2015), Văn nhân quân đội, Tiểu luận - Phê bình - Đối thoại, Nxb Văn học, tr.15.
[9] Anh Ngọc (2019), Bình bài thơ “Sợi nhớ sợi thương” của nữ nhà thơ Thúy Bắc, báo điện tử vtv.vn, ngày 10/12/2019.
[10] Nhiều tác giả (1984), Nhà thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Khoa học xã hội, H., tr.241
[11] Nguyễn Hữu Quý (2014), Những thế hệ nhà thơ mang áo lính, báo Nhân dân Cuối tuần, ngày 21/12/2014.
VNQD