Chủ tịch Hồ Chí Minh với giới văn nghệ sĩ là mối quan hệ mẫu mực giữa người lãnh đạo cách mạng và giới sáng tạo. Người không áp đặt, mà định hướng bằng chính tấm gương sống, sự chân thành và lòng yêu nghệ thuật sâu sắc. Những lời dạy của Bác còn nguyên giá trị cho đến hôm nay.
Bối cảnh và tư tưởng chỉ đạo của Bác Hồ về văn học nghệ thuật
Ngay từ đầu Cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định vai trò to lớn của văn hóa, văn nghệ trong sự nghiệp cách mạng. Người coi văn nghệ là “một mặt trận”, và nghệ sĩ là “chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng”. Bác nhấn mạnh tính chiến đấu và tính nhân văn của văn nghệ, yêu cầu tác phẩm nghệ thuật phải phục vụ quần chúng, đặc biệt là công, nông, binh. Bác không chấp nhận thứ nghệ thuật xa rời đời sống, hay nghệ thuật “tháp ngà”. “Nay ở trong thơ nên có thép/ Nhà thơ cũng phải biết xung phong”.
Từ năm 1941, khi trở về nước lãnh đạo cách mạng, Bác đã xác định rõ vai trò của văn hóa và nghệ thuật trong cuộc đấu tranh giành độc lập. Tại Đề cương Văn hóa Việt Nam năm 1943 (do Tổng Bí thư Trường Chinh khởi thảo dưới sự chỉ đạo tư tưởng của Hồ Chí Minh), đã nêu nguyên tắc: "Văn hóa là một mặt trận, cũng như chính trị và kinh tế." Điều này sau này được chính Bác Hồ nhắc lại nguyên văn tại Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ nhất.

Bác Hồ trò chuyện với các nhà văn, nhà thơ Tố Hữu, Phan Tứ và Trần Đình Văn.
Giai đoạn 1946-1954, đất nước bước vào cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện. Trong hoàn cảnh đó, Bác chỉ đạo rõ ràng: "Văn hóa, nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy" (Hội nghị văn nghệ toàn quốc, Việt Bắc, 1948). Bác nhấn mạnh: văn nghệ sĩ không được đứng ngoài cuộc đấu tranh của dân tộc, mà phải là một bộ phận trong khối đại đoàn kết kháng chiến. Sau 1954, thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, Bác và Trung ương đặt ra yêu cầu mới, văn học nghệ thuật không chỉ phục vụ kháng chiến mà còn phải giáo dục nhân dân, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Các hoạt động như phong trào "Người tốt, việc tốt", thi đua yêu nước, sáng tác về công nhân, nông dân, bộ đội,... được Bác quan tâm trực tiếp. Nhiều lần Bác mời các nhà văn, nhà thơ đến để trò chuyện, góp ý các tác phẩm viết về gương sáng trong lao động, chiến đấu.
Tư tưởng chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một hệ thống có chiều sâu, được thể hiện ở các nguyên lý rõ ràng nhưng mềm mại, thấm đẫm nhân văn. "Nhiệm vụ của văn nghệ sĩ là phục vụ nhân dân. Chỉ có phục vụ nhân dân thì văn nghệ mới có sinh khí và sức sống" (Bài nói chuyện tại Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần II, 1957). Bác chỉ rõ, văn nghệ không phải để “ngâm hoa, vịnh nguyệt” mà phải tham gia vào sự nghiệp lớn của dân tộc, thể hiện bằng những con người cụ thể, việc làm cụ thể. Bác không dùng mĩ từ xa xôi mà luôn đặt văn nghệ vào trung tâm của cuộc đấu tranh: “Cũng như các ngành khác, văn nghệ phải phụng sự Tổ quốc và phụng sự nhân dân. Phải có tác phẩm hay, nội dung tốt, hình thức thích hợp với nhân dân, với thời đại cách mạng” (1951, trong cuộc nói chuyện với cán bộ văn nghệ). Mặc dù nhấn mạnh vai trò phục vụ chính trị, Bác chưa bao giờ áp đặt khuôn mẫu khô cứng. Người khuyến khích văn nghệ sĩ tìm tòi, sáng tạo, đổi mới, miễn là không xa rời thực tiễn và nhân dân. “Văn hóa không thể tách rời độc lập, tự do. Nhưng độc lập, tự do cũng không thể thiếu văn hóa”. Tư tưởng chỉ đạo của Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật vừa giàu chất cách mạng, vừa đầy tính nhân văn và thấu cảm. Người hiểu sâu sắc vai trò của người nghệ sĩ và không bao giờ coi nhẹ sức mạnh của một tác phẩm hay.
Tình cảm và sự quan tâm đặc biệt của Bác đối với văn nghệ sĩ
Bác luôn dành cho giới văn nghệ sự quan tâm chân thành, sâu sắc. Người thường xuyên gặp gỡ, trò chuyện, góp ý và khuyến khích các nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ… Năm 1948, Bác viết thư gửi Hội nghị Văn hóa Toàn quốc lần thứ nhất, căn dặn: "Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi". Năm 1951, khi một số văn nghệ sĩ có mặt tại chiến khu Việt Bắc, Bác đã tiếp xúc, góp ý tác phẩm và còn đọc thơ, kể chuyện để động viên họ. Bác không chỉ quan tâm đến tác phẩm, mà còn quan tâm đến đời sống cá nhân của nghệ sĩ. Người thường gửi thư thăm hỏi, động viên văn nghệ sĩ. Một vài trường hợp tiêu biểu như: Bác viết thư khen họa sĩ Tô Ngọc Vân, nhà văn Nam Cao; Bác gặp gỡ, động viên Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Tố Hữu… Bác tặng bút danh “Trần Dân Tiên” cho người chép tiểu sử mình (được cho là ông Vũ Kỳ viết, Bác chỉnh sửa).
Trong nhiều cuộc gặp mặt văn nghệ sĩ, Bác thường hỏi han chuyện sáng tác, gia đình, cuộc sống với sự quan tâm thực lòng. Nhà văn Nguyễn Tuân kể: “Bác nhìn tôi bằng ánh mắt của một người hiểu cả cái ngang của tôi. Và Bác bảo: Chú cứ viết, nhưng đừng xa dân.” Khi Tố Hữu làm bài thơ “Việt Bắc”, Bác không ngần ngại góp ý một câu cho sâu hơn, cảm động hơn, đó là câu “Mình đi có nhớ những nhà” là do Bác gợi ý. Với Nam Cao, Trần Đăng, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Hồng Phong…, Bác viết thư tay, hoặc đánh máy, kí tên, gửi lời khen chân tình, không theo nghi thức hành chính mà rất riêng tư, sâu sắc. Bác đọc rất nhiều và nhớ cả chi tiết nhỏ trong bài viết, bài thơ. Điều đó chứng minh Người quan tâm thực sự chứ không hình thức.
Bác không đưa ra mệnh lệnh cứng nhắc mà luôn gợi ý mang tính định hướng nhân văn, chẳng hạn: “Văn học phải phản ánh được tâm hồn dân tộc.” “Phải viết sao cho dân hiểu, dân thích, dân nghe, dân làm.” Đó là cách nói tình cảm, dễ tiếp nhận, không giáo điều, giúp văn nghệ sĩ cảm thấy được tôn trọng và có không gian sáng tạo.
Sau 1954, khi văn nghệ bước vào giai đoạn xây dựng đời sống mới, Bác vẫn theo dõi từng tác phẩm, từng phong trào. Bác khởi xướng phong trào “Người tốt, việc tốt” không phải chỉ để viết báo cáo, mà để các nhà văn, nhà thơ có chất liệu sống thực, gần dân, không viết xa rời đời sống. Tình cảm của Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho văn nghệ sĩ không chỉ là sự ưu ái nhất thời, mà là một tư tưởng văn hóa xuyên suốt, được thể hiện bằng hành động cụ thể, lời nói chân thành và một trái tim ấm áp, tôn vinh cái đẹp.
Những định hướng cụ thể của Bác với văn học nghệ thuật
Bác cũng đưa ra những định hướng cụ thể với văn học nghệ thuật. Nghệ thuật phải gắn với nhân dân: “Muốn viết cho hay, cho đúng, thì phải gần gũi quần chúng, lắng nghe quần chúng.” Chống chủ nghĩa cá nhân, hình thức chủ nghĩa. Bác phê phán những biểu hiện xa rời thực tế, chạy theo hư danh. Tôn trọng sáng tạo cá nhân nhưng đặt trong khuôn khổ phụng sự đất nước. Bác không cấm nghệ sĩ sáng tạo cái mới, nhưng cần định hướng vào phục vụ sự nghiệp cách mạng, nâng cao dân trí, đạo đức.

"Bác bắt nhịp bài ca kết đoàn".
Trong đó, Người thể hiện rõ quan điểm: Văn học nghệ thuật phải phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Từ những năm đầu chống Pháp, Bác đã nhấn mạnh: “Văn hóa nghệ thuật không thể đứng ngoài cuộc chiến đấu vĩ đại của dân tộc” (Lời phát biểu tại Hội nghị văn hóa toàn quốc, 1946). Trong thư gửi trí thức năm 1946, Bác viết: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản. Các bạn trí thức và văn nghệ sĩ phải đi đầu trong việc giác ngộ quần chúng.” Dù đề cao vai trò định hướng chính trị, Bác không hề gò bó nghệ sĩ. Trong thư gửi anh em văn nghệ sĩ (1951), Người nhấn mạnh: “Mỗi nghệ sĩ có một cách nhìn, một cách cảm riêng. Không nên gò bó khuôn mẫu. Nhưng đã là văn nghệ sĩ cách mạng, thì phải làm tròn trách nhiệm với cách mạng.”
Bác cũng đề cao hình thức nghệ thuật ngắn gọn, giản dị, dễ hiểu, có tính dân tộc. Trong thư gửi Hội Văn nghệ Việt Nam (tháng 12/1951), Bác căn dặn: “Cố gắng có nhiều tác phẩm tốt, nội dung thiết thực, hình thức vui tươi, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ và hợp với trình độ, thị hiếu của nhân dân.” Đây là yêu cầu mang tính thẩm mĩ học cách mạng, không đánh đố, không xa lạ, không cầu kì, mà chạm vào trái tim số đông bằng sự giản dị chân thành. Trong bài nói tại Hội nghị văn nghệ toàn quốc lần thứ III năm 1962, Bác căn dặn: “Văn nghệ sĩ phải phản ánh trung thực đời sống, trung thực với nhân dân, với cách mạng, với Tổ quốc.” Người bác bỏ mọi xu hướng “viết đẹp mà rỗng”, hoặc chỉ tô vẽ những gì hời hợt, phi thực tiễn. Đồng thời, Bác yêu cầu gìn giữ bản sắc dân tộc, không chạy theo mô hình ngoại lai, đặc biệt cảnh báo về thói sính Tây, sính hình thức.
Và quan trọng, Bác cho rằng, nghệ thuật phải nuôi dưỡng đạo đức con người. “Người viết văn phải rèn luyện đạo đức cách mạng như người cán bộ.” Theo Bác, văn học nghệ thuật không chỉ truyền cảm xúc mà còn có tác dụng nuôi dưỡng, cảm hóa, và nâng đỡ đạo đức xã hội. Người đặt ra yêu cầu rất cao về nhân cách người nghệ sĩ, phải khiêm tốn, trung thực, gắn bó với nhân dân. Những định hướng cụ thể của Hồ Chí Minh đối với văn học nghệ thuật không chỉ mang tính thời sự trong kháng chiến, mà còn là kim chỉ nam có giá trị bền vững. Tư tưởng ấy không chỉ tạo nên một thế hệ văn nghệ sĩ lớn như Tố Hữu, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Tuân, Nam Cao… mà còn để lại di sản cho nhiều thế hệ hôm nay.
Dưới sự chỉ đạo và ảnh hưởng của tư tưởng Hồ Chí Minh, một nền văn học cách mạng đã hình thành, phát triển mạnh mẽ. Phải nói rằng, tư tưởng của Bác đã hun đúc một thế hệ vàng của văn học cách mạng. Tạo dựng được một đội ngũ nhà văn chiến sĩ đông đảo, vừa cầm bút, vừa cầm súng (Nguyễn Thi, Lê Anh Xuân, Phạm Tiến Duật…). Hình thành được một kho tàng tác phẩm sâu sắc, cảm động, đậm đà bản sắc dân tộc và lí tưởng cách mạng, có sức lay động lớn (Từ ấy của Tố Hữu; Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi; Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi …).
Hình ảnh Bác Hồ trong tác phẩm của các văn nghệ sĩ
Ngay từ những năm đầu của Cách mạng Tháng Tám, hình ảnh Hồ Chí Minh đã trở thành biểu tượng tinh thần cho cả dân tộc. Từ ánh sáng trí tuệ đến đức tính giản dị, từ vai trò lãnh tụ đến tình cảm gần gũi, Bác hiện lên trong tác phẩm văn nghệ không như một huyền thoại xa vời mà như một con người sống động, gần gũi, sâu sắc và vĩ đại.

Bức tranh sơn dầu “Bác Hồ làm việc ở Bắc Bộ phủ” nổi tiếng của họa sĩ Tô Ngọc Vân.
Trong bài thơ Bác ơi!, viết sau ngày Bác mất, Tố Hữu nghẹn ngào: Bác ơi tim Bác mênh mông thế/ Ôm cả non sông mọi kiếp người... Với Tố Hữu, Bác là hiện thân của lòng yêu nước, tình thương và trí tuệ. Câu thơ thiêng liêng, phản ánh sự hóa thân của Bác vào đất nước, từ con người trở thành ánh sáng tinh thần. Trong bài Người đi tìm hình của nước, Chế Lan Viên không miêu tả trực tiếp, mà khắc họa chuyến đi tìm đường cứu nước đầy cô đơn và vĩ đại của Nguyễn Ái Quốc: Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước/ Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà. Ông dùng hình ảnh “nước” như một biểu tượng kép: vừa là tổ quốc, vừa là giấc mơ, vừa là lý tưởng. Qua đó, chân dung Bác hiện lên như một linh hồn hóa thân vào số phận dân tộc. Trong bài viết “Bác Hồ - Người là tình yêu thiết tha nhất”, nhà văn Nguyễn Đình Thi kể lại những lần gặp Bác ở chiến khu Việt Bắc: “Bác đọc bản thảo, sửa từng câu, dặn đi dặn lại: viết cho đồng bào đọc chứ không phải để khoe chữ…” Qua những kí ức chân thực ấy, hình ảnh Bác hiện lên như một nhà sư phạm văn hóa, thấm đẫm tinh thần dân tộc và sự khiêm nhường sâu sắc.
Hình ảnh Bác Hồ trong hội họa và âm nhạc cũng là biểu tượng của ánh sáng, lòng tin, và sự gắn bó. Họa sĩ Tô Ngọc Vân, năm 1946 đã vẽ bức tranh sơn dầu Bác Hồ làm việc ở Bắc Bộ phủ nổi tiếng, khắc họa đôi mắt sáng, trầm tĩnh và sâu xa, được coi là một trong những hình ảnh tiêu biểu nhất về Người. Họa sĩ Diệp Minh Châu vẽ Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Việt Bắc. Rất nhiều họa sĩ như Lê Lam, Phan Kế An… để lại hàng loạt kí họa trực tiếp về Bác tại chiến khu, những bức tranh khắc hoạ sự giản dị mà vĩ đại của Người. Âm nhạc với nhiều tác phẩm nổi tiếng như Ca ngợi Hồ Chủ tịch của Lưu Hữu Phước, Lời ca dâng Bác của Trọng Loan, Miền Nam nhớ mãi ơn Người của Lưu Cầu, Tiếng hát giữa rừng Pác Bó của Nguyễn Tài Tuệ, Lời Bác dặn trước lúc đi xa của Trần Hoàn… Âm nhạc không chỉ ngợi ca, mà còn nuôi dưỡng hình ảnh Bác trong tâm hồn nhiều thế hệ người Việt Nam.
Hình ảnh Hồ Chí Minh trong tác phẩm văn nghệ không chỉ dừng lại ở chân dung một vị lãnh tụ, mà được nâng lên thành biểu tượng của lí tưởng sống, hiện thân của trí tuệ, tình thương và đạo đức dân tộc. Hình ảnh Bác là nguồn cảm hứng lâu dài của văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại. Bằng sự kính trọng sâu sắc và trải nghiệm sống động, các văn nghệ sĩ không “tượng đài hóa” Bác một cách cứng nhắc, mà để hình tượng ấy tỏa sáng từ chiều sâu văn hóa và nhân cách.
Hình ảnh Hồ Chí Minh trong tác phẩm của văn nghệ sĩ Việt Nam là một hiện tượng thẩm mĩ, tư tưởng đặc biệt: vừa hiện thực, vừa thiêng liêng; vừa gần gũi, vừa vĩ đại. Nhờ những tư liệu chân thực, những hồi ức trực tiếp và cảm xúc chân thành, hình tượng ấy đã đi vào tâm hồn dân tộc như một phần không thể tách rời của văn hóa Việt Nam hiện đại.
NGUYỄN THỊ THU HÀ
VNQD