. HẠ NGUYÊN
Đại dịch Covid-19 từng khiến thị trường điện ảnh Việt Nam đối mặt với những thách thức lớn: doanh thu ảm đạm; khâu sản xuất - phát hành của nhiều bộ phim bị gián đoạn; áp lực cạnh tranh với các ứng dụng xem phim trực tuyến… Tuy nhiên, những thách thức ấy cũng tạo nên động lực mạnh mẽ để nền điện ảnh tự phục hồi. Từ năm 2021 đến nay, điện ảnh Việt chứng kiến hàng loạt kỉ lục phòng vé. Đặc biệt, bộ phim Mưa đỏ của Điện ảnh Quân đội nhân dân được công chiếu vào cuối tháng 8 vừa qua không chỉ chiến thắng oanh liệt về doanh thu mà còn xác lập nên một cột mốc trưởng thành vượt bậc của điện ảnh Việt Nam từ kịch bản, diễn xuất, chất lượng hình ảnh cho đến hiệu ứng truyền thông.
Sử thi bi tráng được kể từ mỗi phận người
Được chấp bút bởi nhà văn Chu Lai - ngòi bút đã đào xới đến tận cùng đề tài chiến tranh - Mưa đỏ có một kịch bản thuyết phục, tạo nên điểm tựa vững chắc cho cả bộ phim. Chu Lai viết kịch bản Mưa đỏ từ năm 2010, với cái nhìn hậu chiến bao quát, điềm tĩnh, thâm trầm. Khai thác cuộc chiến tại Thành cổ Quảng Trị trong chiến dịch xuân - hè 1972, Mưa đỏ đã tái hiện bộ mặt kinh hoàng của chiến tranh qua thân phận mỗi con người trong khói lửa. Giống như Mùi cỏ cháy, câu chuyện của Mưa đỏ tập trung vào một nhóm lính trẻ vừa chập chững vào chiến trường sau lệnh tổng động viên năm 1971. Tuy nhiên, nếu các chàng trai Hoàng, Thành, Thăng, Long của Mùi cỏ cháy đều xuất thân là sinh viên, đến từ Hà Nội với tâm hồn trong sáng, ngây ngất lí tưởng “bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa” thì những anh lính của tiểu đội 1: Tạ, Cường, Bình, Sen, Tú, Hải trong Mưa đỏ lại có xuất thân từ nhiều tầng lớp, nhiều miền quê và tính cách, số phận của họ vì vậy cũng phức tạp hơn, tạo nên những ánh xạ đa chiều về cuộc chiến.
Với Tạ - tiểu đội trưởng, một nông dân Thanh Hóa dày dạn kinh nghiệm chiến đấu, chiến tranh chỉ tồn tại một quy luật trần trụi: ai bắn trước thì người đó sống, không bắn kịp thì “ngỏm”. Còn trong mắt Cường và Tú - những chàng trai trẻ đến từ Hà Nội - xếp bút nghiên ra trận cứu nước là lí tưởng, khát vọng phơi phới của người trai thời loạn. Bình - sinh viên mĩ thuật - cũng theo lệnh tổng động viên lên đường vào Quảng Trị, nhưng hiện thực khắc nghiệt của chiến trường khiến tâm hồn nhạy cảm của anh trải qua những sang chấn dữ dội trước khi bắt nhịp được với những căng thẳng tột độ của cuộc sinh tử. Sen - vốn là bộ đội đặc công được huấn luyện bài bản trước khi xung trận - chững chạc và tinh nhạy, nhanh chóng làm chủ mọi tình thế, nhưng rồi cũng chính anh, sau một đêm bị bom đạn vùi lấp dưới chiến hào, đã hóa điên dại, “thất lạc cõi người”. Còn Hải - anh thợ điện Quảng Nam - bộc trực và tháo vát, vừa đánh vừa nỗ lực tìm lối thoát hiểm để giảm bớt thương vong cho đồng đội. Sự dịch chuyển cách nhìn chiến tranh qua trải nghiệm của nhiều nhân vật đã đem đến cho Mưa đỏ một sự đa thanh hiếm thấy so với các tác phẩm khác của dòng phim chiến tranh Việt Nam. Nếu Mùi cỏ cháy vẫn còn nặng tính luận đề từ cách đặt tên nhân vật đến cách xây dựng câu chuyện thì Mưa đỏ đã mạnh dạn góp những giọng nói phản tư về chiến tranh: chiến đấu bảo vệ Thành cổ là cuộc chiến can trường “máu xương đổ xuống - đất trời lưu danh”, nhưng cũng là cuộc chiến với quá nhiều đau thương, mất mát, là cơn “mưa đỏ” in hằn trên từng tấc đất, từng phận người.
Biên độ câu chuyện phim còn được mở rộng bởi cách kể đa tuyến của Chu Lai: câu chuyện chiến đấu của tiểu đội 1 song hành cùng với những bước tấn công vũ bão của Quân lực Việt Nam Cộng hòa nhờ sự hậu thuẫn tối tân của Hoa Kì; ngoài ra, tuyến truyện về cuộc đàm phán tại hòa đàm Paris 1972 xen kẽ cũng làm mạch phim thêm liền lạc, sáng rõ. Kể về bên kia chiến tuyến, dòng phim cách mạng trong quá khứ thường xây dựng những nhân vật phản diện gian trá, tàn bạo, gắn với cách nhìn có phần đơn giản, hời hợt về con người. Ở phương diện này, Mưa đỏ đã góp phần hóa giải định kiến về những người “phía bên kia” khi khắc họa nhân vật Quang - một trung úy thuộc lực lượng biệt kích dù (Việt Nam Cộng hòa) - sống nghĩa khí, cương trực và sớm nhận ra cuộc chiến mà mình đang tham gia xuất phát từ sự “hoang tưởng” của những kẻ thượng cấp. Quang là một kiểu nhân vật phản anh hùng (anti-hero) mang màu sắc hậu hiện đại, tạo nên sự thay đổi đáng kể trong nhận thức của người xem, giúp khán giả - đặc biệt là khán giả trẻ - dần cảm nhận và thấu hiểu bi kịch của những con người bị giằng xé trước bão táp thời cuộc, từ đó, tạo nền tảng cho quá trình hòa giải, hòa hợp dân tộc vốn còn phải đi qua nhiều chướng ngại của chấp kiến.
Hình ảnh hai người mẹ - mẹ Cường và mẹ Quang - ngồi trước mộ con: một ngôi mộ ngay hàng thẳng lối giữa bao hàng mộ liệt sĩ và một ngôi mộ bơ vơ giữa rừng thông hoang vắng, và cảnh hai người mẹ cùng ngồi trên một con thuyền thả trôi những đóa hoa cúc trên dòng sông Thạch Hãn cũng tạo nên những biểu tượng phản chiến xúc động cho Mưa đỏ. Chiến tranh - nhìn từ nỗi đau người mẹ - mãi là những vết thương âm ỉ, chẳng cách nào khỏa lấp như lời nhắn nhủ của đứa con trong bài hát Còn gì đẹp hơn: Hết kháng chiến, nếu con còn chưa về/ Mẹ ơi vui lên, mẹ có đứa con anh hùng. Hình ảnh hai người mẹ hai bên chiến tuyến ngồi bên nhau còn gợi liên tưởng đến đoạn kết mang đầy tinh thần hòa giải của truyện ngắn Thuốc (Lỗ Tấn): người mẹ có con chết bệnh đã bước qua con đường mòn ngăn cách giữa nghĩa trang để bước đến an ủi người mẹ có con chết chém vì “cả gan” làm cách mạng. Không có ai đủ tư cách để an ủi một người mẹ mất con bằng chính một người mẹ mất con. Xây dựng chi tiết ấy, phương thuốc mà Lỗ Tấn kê đơn cho dân tộc mình chính là tình thương, sự đồng cảm - điều có thể đưa con người bước qua những ranh giới được vạch ra bởi những định kiến mê muội. Đoạn kết phim Mưa đỏ cũng kế thừa tinh thần hòa giải ấy khi nối gần người Việt trong nỗi đau chung của những người mẹ hai bên bờ vĩ tuyến. Chỉ có đồng cảm và sẻ chia, những vết thương mới khép miệng và kéo da non trên thân hình đất nước.
Vẻ đẹp khốc liệt của hình ảnh
Là dự án lớn nhất trong vòng 20 năm trở lại đây của Điện ảnh Quân đội nhân dân nhằm hướng tới kỉ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9, Mưa đỏ có sự đầu tư toàn diện về bối cảnh; vũ khí, khí tài quân sự; dàn diễn viên; phục trang, đạo cụ; kĩ xảo và các công tác hậu kì… Sự đầu tư tổng lực ấy đã giúp bộ phim phục dựng gần như chân xác khuôn mặt tàn bạo của chiến tranh, khơi dậy gần như lập tức những kí ức vang động tưởng đã ngủ yên trong tâm hồn những cựu chiến binh Thành cổ.
Sau quá trình khảo sát hơn 10 tỉnh, thành khắp cả nước để chọn địa điểm quay phù hợp, đoàn làm phim đã quyết định xây dựng phim trường ngay bên bờ sông Thạch Hãn, Quảng Trị, nơi diễn ra trận chiến bảo vệ Thành cổ năm xưa. Phim trường có diện tích lên đến 50 hecta, được các đơn vị công binh giải phóng mặt bằng, rà phá bom mìn suốt một năm trời để đảm bảo an toàn cho đoàn làm phim. Ê-kíp thiết kế mĩ thuật của họa sĩ Vũ Việt Hưng đã làm việc suốt 15 tháng từ dựng bản vẽ tay, mô hình đồ họa 3D đến làm sa bàn chi tiết để tái hiện toàn cảnh chiến trường Thành cổ. Quá trình thực hiện, đội ngũ họa sĩ thiết kế đã tham khảo nhiều tư liệu lịch sử, sự cố vấn của các cựu chiến binh và nhờ có sự hỗ trợ quan trọng của nhiều binh chủng Quân đội nên hiệu quả mĩ thuật của phim thật sự mãn nhãn. Những mảng tường gạch loang lổ, những đống đổ nát, những hố bom, chiến hào, cổng thành Đinh Công Tráng hay khung cảnh u ám, ẩm thấp của phòng phẫu tiền phương… dần dần hoàn thiện một sinh khí chiến trận đặc quánh mùi thuốc súng. Doanh trại của các đơn vị Quân lực Việt Nam Cộng hòa dù xuất hiện không nhiều nhưng luôn để lại ấn tượng choáng ngợp với lực lượng hùng hậu, khí tài tối tân nhờ sự hậu thuẫn đầy “hào phóng” của Hoa Kì.
Dịp kỉ niệm 30/4 năm nay, người yêu điện ảnh Việt đã thảng thốt trước những cảnh quay thực chiến sống động của bộ phim Địa đạo: Mặt trời trong bóng tối, thì nay Mưa đỏ lại một lần nữa mang đến cho khán giả mĩ cảm của sự khốc liệt từ những đại cảnh chiến đấu đầy bi tráng. Sự kết hợp giữa nữ đạo diễn chuyên trị dòng phim chiến tranh Đặng Thái Huyền và nhà quay phim kì cựu Lý Thái Dũng đã giúp Mưa đỏ kế thừa những thành tựu hình ảnh của dòng phim chiến tranh trong quá khứ, đồng thời tạo ra những chuẩn mực mới cho dòng phim này.
Cái đẹp của hình ảnh trong dòng phim chiến tranh, nghịch lí thay, không nằm ở những khung hình thi vị mà chủ yếu nằm ở những thước phim tái hiện sức hủy diệt của bom đạn. Chính vì vậy, đạo diễn của dòng phim này dễ rơi vào thế “đi trên dây” vì vừa phải tái hiện triệt để sự khốc liệt của chiến cuộc, vừa tiết chế để hình ảnh không sa vào tàn bạo, phản cảm. Nhờ nhân lực, vật lực từ Bộ Quốc phòng và sự hỗ trợ đáng quý của nhân dân Quảng Trị, đạo diễn Đặng Thái Huyền đã có những điều kiện quan trọng để hiện thực hóa những ý đồ thẩm mĩ. Những đợt tấn công dày đặc vào mặt trận Thành cổ bất kể ngày đêm của quân địch khiến màn ảnh trình hiện liên tiếp những khung hình dữ dội: cảnh pháo sáng rợp trời trên bờ sông Thạch Hãn; cảnh xe tăng, xe bọc thép nã pháo rát rạt tạo nên những bức màn lửa thiêu sống thân người; cảnh những cơn mưa đỏ rực; những hố bom như mồ chôn tập thể; những cảnh giáp lá cà nghẹt thở… Có những ý kiến trái chiều về cách tổ chức mạch phim của đạo diễn Đặng Thái Huyền khi chị dàn trải quá nhiều cảnh chiến đấu trước khi đẩy chuyện phim lên đến cao trào, nhưng đó có lẽ là chủ ý của người cầm trịch để đặt khán giả vào chính tâm thế mỏi mòn của người lính trong chiến dịch năm xưa.
Bên cạnh khâu tiền kì công phu, quá trình làm hậu kì cho phim Mưa đỏ cũng gây bất ngờ bởi tốc độ làm việc đáng khâm phục của ê kíp. Do quá trình quay phim gặp nhiều vấn đề không thuận lợi, việc làm hậu kì chỉ có thời gian 6 tháng để phim kịp công chiếu trước thềm đại lễ. Trong khi đó, thời gian làm hậu kì cho những dự án lớn như Mưa đỏ phải mất không dưới 1 năm, và thường được đảm trách bởi các ê kíp nước ngoài. Tuy nhiên, đơn vị làm hậu kì cho Mưa đỏ - 3DART - lại là những kĩ sư đồ họa đầy tiềm năng của điện ảnh Việt. Nhờ sự ứng dụng mượt mà các kĩ xảo đồ họa và trí tuệ nhân tạo (AI), ê kíp này đã dựng được những đại cảnh phức tạp như cảnh chiến hạm trên biển hay cảnh máy bay thả bom, góp phần tạo thêm sự hoành tráng cho bộ phim. Thành công này của 3DART cũng mang đến niềm tin về sự phát triển của công nghệ đồ họa của điện ảnh Việt, tạo tiền đề cho những bom tấn mãn nhãn tiếp theo trong tương lai.
Lớp diễn viên trẻ dấn thân và giỏi nghề
Đạo diễn Đặng Thái Huyền khiến khán giả khâm phục không chỉ ở năng lực quản lí, điều phối các khâu trong quá trình sản xuất mà còn ở khả năng lựa chọn và đào tạo một dàn diễn viên có thực lực và hợp vai, là một trong những yếu tố cốt lõi để làm nên thành công của Mưa đỏ. Giống với công thức chọn diễn viên của đạo diễn Bùi Thạc Chuyên ở Địa đạo, Đặng Thái Huyền cũng chọn nhiều gương mặt “mới toanh” để đảm bảo cảm giác tươi mới, chân thực cho bộ phim. Các diễn viên Đỗ Nhật Hoàng (vai Cường), Phương Nam (vai Tạ), Lê Hạ Anh (vai Hồng), Steven Nguyễn (vai Quang) mới chỉ xuất hiện ở một vài dự án; riêng Nguyễn Đình Khang (vai Tú), Nguyễn Hùng (vai Hải), Lâm Thanh Nhã (vai Bình), Hoàng Long (vai Sen), Trần Gia Huy (vai Tấn) hầu như là những tân binh của màn ảnh. Tuy nhiên, trải qua quá trình huấn luyện kĩ năng và tác phong quân đội, dàn diễn viên trẻ nhanh chóng nhập vai và có những phút thể hiện xuất thần trên màn ảnh, dù với một bộ phim chiến tranh đa tuyến, đất diễn của mỗi nhân vật rất khiêm tốn.
Những ai đã từng gặp gỡ diễn viên Phương Nam qua những vai giang hồ lấc cấc trên màn ảnh, hầu như khó có thể nhận ra anh trong nhân dáng anh Tạ - người tiểu đội trưởng thô kệch mà chất phác và đầy bao dung trong Mưa đỏ. Phương Nam đã giảm 15kg, và về quê nhà Thanh Hóa học nhuyễn giọng địa phương để khắc họa một anh Tạ duyên dáng, tếu táo nhưng lại mang đến cho câu chuyện phim nhiều khoảng lặng đầy xúc động. Các nhân vật Bình (Lâm Thanh Nhã) và Sen (Hoàng Long) có nhiều biến động tâm lí phức tạp trong suốt hành trình chiến đấu ở Thành cổ, đòi hỏi diễn viên phải có những xử lí tinh tế và thuyết phục và cả hai diễn viên trẻ đều có những biểu hiện rất đáng ngợi khen trong quá trình lột tả nội tâm nhân vật. Vai diễn trung úy Quang của Steven Nguyễn dù là một nhân vật phản anh hùng nhưng cũng góp phần đem chất nam tính phong trần vốn dần trở nên khan hiếm trên màn ảnh Việt quay trở lại, tạo ra những hiệu ứng truyền thông thú vị cho bộ phim.
Rõ ràng, những dự án quy mô và giàu ý nghĩa như Mưa đỏ đang góp phần xây dựng một đội ngũ diễn viên xông xáo, cầu thị và nghiêm túc với nghề cho điện ảnh Việt. Việc xuất hiện ở bom tấn này khiến những diễn viên trẻ thêm trân trọng công việc của mình và có nhiều cơ hội tỏa sáng nay mai.
Những điều chưa hoàn hảo và những kì vọng cho tương lai
Mưa đỏ mang đến niềm tự hào và niềm tin cho công chúng yêu điện ảnh. Tuy nhiên, bộ phim vẫn còn những hạn chế không khó phát hiện. Thời lượng phim không đủ để triển khai ý đồ kịch bản nên diễn biến Hội nghị Paris còn hời hợt, chưa đáp ứng những mong mỏi của công chúng. Những sáng tạo, hư cấu trong cốt truyện còn gây ra những ý kiến trái chiều trong nhóm khán giả đã đi qua chinh chiến. Nhiều cảnh phim lộ rõ sự sắp đặt của đạo diễn làm mạch phim thiếu tự nhiên, nhất là những cảnh đánh nhau tay đôi giữa hai bên vốn rất ít gặp trên chiến trường ác liệt. Giọng nói của một số nhân vật không phù hợp với xuất thân, vốn cũng là một lỗi trầm kha của phim Việt. Sự thảo luận sôi nổi về những điểm bất toàn của phim trên các diễn đàn mạng xã hội cũng khiến ta nhận ra công chúng của điện ảnh Việt đang dần trưởng thành về thị hiếu thẩm mĩ, đòi hỏi nhà làm phim phải không ngừng hoàn thiện mình.
Một tác phẩm lớn luôn tạo ra những cuộc tranh luận lớn và cũng mang đến cho người xem nhiều kì vọng. Thành công của Mưa đỏ trước hết đến từ một kịch bản chắc tay, đây là một gợi ý cho các nhà làm phim về việc khai thác những kịch bản chuyển thể từ các tác phẩm lớn của văn học Việt Nam. Đồng thời, đội ngũ sản xuất hoàn toàn nội địa “made in Vietnam” từ bối cảnh, đạo cụ, phục trang, vũ khí đến thiết kế mĩ thuật, thiết kế đồ họa cho thấy sự trưởng thành khá đồng bộ của ngành công nghiệp điện ảnh trong nước. Rõ ràng, Mưa đỏ đã chứng minh, sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan nhà nước với các đơn vị tư nhân là cú bắt tay chiến lược để thúc đẩy sự phát triển của điện ảnh nói riêng và nền công nghiệp văn hóa nói chung. Nhờ có những tác phẩm như Mưa đỏ, chúng ta đã có đủ cơ sở để tin rằng, đã đến lúc Việt Nam có thể đẩy mạnh xuất khẩu văn hóa.
H.N
VNQD