. HIỀN TRANG
“Em sẽ cưới anh chứ?”
“Nghiêm túc á?”
“Nghiêm túc mà.”
“Kim cương 3 carat nhé?”
“4 carat thì sao?”
Đoạn hội thoại hài hước của Anora cuối cùng lại ứng vào chính bộ phim này. Trong một mùa giải mà tất cả đều cho rằng không có một bộ phim nào vượt trội hẳn về chất lượng, và những tượng vàng sẽ được san đều cho nhiều tác phẩm, thì Anora đã bất ngờ thắng 4 giải quan trọng: Phim, Đạo diễn, Kịch bản gốc, Nữ diễn viên chính (và đấy là còn chưa kể giải thưởng ở hạng mục Dựng phim). Viên kim cương 4 carat đã dành cho Anora. Đến cả Oppenheimer của Christopher Nolan, một đỉnh cao điện ảnh hồi năm ngoái, cũng không thống trị tới thế ở các hạng mục chính - Oppenheimer không thắng giải Kịch bản. Chiến thắng có thể coi là tuyệt đối của Anora khiến người ta giật nảy: Phim tuyệt tác à? Câu trả lời sẽ gây thất vọng: Không, không hề.

Có khán giả nói đùa, Anora của Sean Baker chỉ là một phiên bản cao cấp hơn của phim Trấn Thành, này nhé: cũng chuyện đũa mốc chòi mâm son, cũng ồn ã những đoạn thoại chửi nhau, cũng chuyện giai cấp, cũng… rất “đời”. Nói thế thì hơi nâng cao quan điểm, nhưng quả nhiên, nếu chỉ xét về nội dung, thì Anora không có gì mới: một cô gái điếm gốc Nga sống ở New York kết hôn với người thừa kế phá gia chi tử của một tài phiệt Nga, gia đình cậu phát hiện và bắt cả hai đi giải quyết hậu quả, cậu chuồn luôn, còn cô lẽo đẽo đi theo đám tay sai của cậu, với hi vọng mong manh rằng cậu ta thật sự yêu mình. Chuyện xưa như trái đất, vậy mà phim không những thắng giải Phim hay nhất, còn giành luôn giải Kịch bản hay nhất. Hollywood hết kịch bản ư? Cũng không. Trong danh sách năm nay, có ít nhất hai ứng cử mạnh ở hạng mục này. The Substance - một hiện tượng phim kinh dị với câu chuyện về một minh tinh hết thời được chào mua một thần dược giúp cô phân thân thành một phiên bản trẻ trung xinh đẹp hơn, và hai phiên bản sẽ thay phiên nhau sống, chắc chắn là sáng tạo hơn, quái đản hơn, li kì hơn, bất ngờ hơn, độc đáo hơn. Đấy là chưa kể tới The Brutalist - sử thi về một nghệ thuật gia/ một người sống sót khỏi Diệt chủng Do Thái/ một người nhập cư mang giấc mơ Mĩ/ một nghi dung ngậm ngùi về con người và hoài vọng bất diệt với nghệ thuật. Còn không thì, A Real Pain, một hài kịch nhỏ nhắn nhưng cũng rất nguyên bản: chuyện hai anh em họ người Mĩ gốc Ba Lan trở về quê ngoại để thăm chứng tích chiến tranh, thăm lại ngôi nhà cũ của bà mình, một người đã thoát chết trong trại tập trung. Rốt cuộc, Viện Hàn lâm khoa học và nghệ thuật điện ảnh với khoảng 10.000 lá phiếu đã chọn Anora.
Nghe vô lí không tưởng nhưng lại có lí vô cùng. Anora khó so với The Substance về những ý tưởng gây sốc, càng không so được với The Brutalist về triết lí và tham vọng, so với A Real Pain thì không tươi mới bằng. Các tác phẩm đều có câu chuyện hay, nhưng câu chuyện nào khiến ta khóc? Chính là Anora. Tất nhiên, điện ảnh không có nghĩa vụ khiến ai khóc cả. Thậm chí một tác phẩm khiến ai nấy đều rơi nước mắt thì có khả năng là một tác phẩm sến súa mua nước mắt. Nhưng ta hãy cứ nhớ đến cảnh cô phục vụ bàn Cecilia trong bối cảnh Đại suy thoái thập niên 1930 ở nước Mĩ; cô đi vào rạp chiếu phim và những phút giây hạnh phúc nhất trong đời cô là khi cô ngồi trước màn ảnh rộng, và khóc khi xem phim. Điện ảnh không giỏi nói lí lẽ, nếu cần một thứ gì đó uyên bác, triết học, xin mời đọc văn chương (và điều này cũng không phải riêng tôi nói, mà chính Roger Ebert - cây bút bình phim huyền thoại một thời - đã khẳng định). Thiên khiếu của điện ảnh là khiến ta rung động, khiến ta dâng trào cảm xúc. Anora làm được điều đấy, phim khiến ta cười và khiến ta khóc, nghe như một trải nghiệm nghệ thuật rất bình dân, nhưng điện ảnh vốn là thế mà - một môn nghệ thuật cho đại chúng, cho số đông, một môn nghệ thuật không nép mình trong đền đài - và một bộ phim làm được thế thì còn gì tôn vinh điện ảnh hơn?
Nhưng nói thế về Anora cũng đủ rồi. Đêm trao giải tuy là đêm của những người thắng cuộc, nhưng là để tri ân điện ảnh. Và điện ảnh thì luôn lớn hơn một bộ phim. Ta thấy vẻ đẹp rộng lớn thênh thang ấy của điện ảnh trong rất nhiều những cặp “đối xứng” ở Oscars năm nay: bom tấn và độc lập, nghệ thuật và thương mại, hài kịch và sử thi, lão làng và “Hồng Hài Nhi”...
Một cặp đối xứng: The Brutalist của đạo diễn Brady Corbet và A Real Pain của đạo diễn Jesse Eisenberg. Hai bộ phim không thể nào khác hơn: một tác phẩm bi kịch dài 3 tiếng rưỡi và ở nhiều nơi người ta thậm chí còn phải nghỉ giải lao giữa hiệp chứ không chiếu liền mạch phim, một hài kịch gọn gàng vừa xinh trong 90 phút; một câu chuyện chỉ diễn ra khi nhân vật từ Cựu thế giới đến Tân thế giới, một câu chuyện chỉ xảy ra khi nhân vật lên máy bay tạm xa rời Tân thế giới để hoài hương Cựu thế giới. Chuyến tàu chở kiến trúc sư tài ba người Hungary Laszló Toth và chuyến máy bay đưa hai anh em họ David và Benji thuộc hai thời đại khác nhau và đi những cung đường khác nhau, nhưng dù đi cung đường nào thì họ cũng không thể tránh khỏi một quang cảnh luôn lấp ló nơi chân trời: sự kiện Diệt chủng người Do Thái của Đức Quốc xã. Laszló Toth là nạn nhân trực tiếp đã tháo chạy thành công; David và Benji là thế hệ thứ ba trong một gia đình đã tháo chạy thành công; Laszló khát khao xây dựng lại tương lai mới; David và Benji khát khao tái hiện quá khứ xưa; Laszló muốn bỏ lại nỗi đau và cố gắng khước từ nỗi đau như một phần bản sắc, Benji đâm thẳng vào nỗi đau để biến nỗi đau thành một phần bản dạng. Khi xem hai tác phẩm đó liền kề, ta thấy câu chuyện trở thành một loại trùng biến hình, từ một đơn bào giản đơn nhất nhưng không ngừng biến hình, liên tục nhân đôi, và sống trong rất nhiều dạng thức. Và quá khứ, đừng bao giờ mong có thể vượt qua quá khứ. Quá khứ cho dù đã hoá cứng trong một tượng đài, hay đã xa thẳm không còn thấy lại, thì vẫn tiếp tục là cột trụ trong sự tồn tại của ta.
Nhưng ở một khía cạnh khác, ta lại có thể xem The Brutalist theo cặp với A Complete Unknown của James Mangold, một tác phẩm tiểu sử về nhạc sĩ/ thi sĩ Bob Dylan những năm 1960, khi còn là chàng trai hai mươi mấy tuổi lang thang với cây guitar đi tìm thần tượng Woody Guthrie, gặp tri kỉ Joan Baez, trở thành biểu tượng nhạc folk, rồi rời bỏ folk để biểu diễn với guitar điện. Laszló Toth và Bob Dylan, một hư cấu và một có thật, nhưng đều là nghi dung của hai nghệ thuật gia sẵn sàng trả mọi giá để đi đến cùng với nghệ thuật mà họ hình dung trong tư tưởng. Ta sẽ thấy hai nhân vật này đối xứng trong một cảnh lang bạt, một bên lang bạt tự nguyện và một bên lang bạt do số phận an bài: Bob Dylan là một gã du ca và coi lang bạt là một lựa chọn; Laszló Toth bị đẩy vào cảnh lang bạt và sự mải miết đeo đuổi một công trình của anh có thể được dịch ra như một nguyện vọng xây nên một nơi mình thuộc về trên vùng đất xa lạ.
Một cặp “đối xứng” khác: Conclave và Emilia Pérez. Câu chuyện về nội tình bầu giáo hoàng và câu chuyện về một trùm băng đảng Mexico muốn hoàn lương và quyết định phẫu thuật chuyển giới để bắt đầu cuộc đời mới thì có gì liên quan đến nhau? Rõ là không có gì liên quan đến nhau cả. Ấy thế mà điện ảnh rất lạ, đi những lối đi khác xa nhau nhưng có khi tình cờ lại vẫn cùng qua một giao lộ. Trong Emilia Pérez, có cả một phân đoạn hài hước về ngành công nghiệp chuyển giới ở Thái Lan. Còn ở Conclave, vị hồng y cuối cùng được bầu làm giáo hoàng hoá ra lại là một người liên giới tính, nghĩa là một người nam nhưng vẫn có những bộ phận sinh dục của nữ giới. Ta có hai chi tiết “queer” phản chiếu nhau ở chỗ này: vị trùm mafia chọn lựa can thiệp vào cơ thể mình để khai sinh thêm lần nữa và chuộc lại lỗi lầm; vị hồng y thì quyết định không can thiệp vào cơ thể mà thượng đế đã ban cho ông, bởi nếu chúa đã tạo tác ta như thế, thì ngài phải có mục đích của ngài. Thay đổi tạo hoá hay từ chối can thiệp vào tạo hoá, điện ảnh không phải là nơi phán xét đúng sai - điện ảnh kể những câu chuyện hay và một câu chuyện hay có ý chí của riêng nó, một câu chuyện hay sẽ tự giải thích được chính mình. Phim không phải một phiên toà hay một quan án, nhân vật không có trách nhiệm phải biện hộ với phim, ngược lại thì ta cũng không cần phim phải giải quyết những bài học đạo đức hay xã hội, ta tìm đến phim để biết rằng thế giới này là muôn hình vạn trạng.
Một lần nữa, mỗi bộ phim đều có rất nhiều cặp đối xứng khác nhau. Conclave, nếu “đọc” trong phần diễn xuất, lại có một sự đối xứng với A Complete Unknown. Ralph Fiennes già dơ trong vai hồng y Lawrence, người chủ trì Mật nghị hồng y và Timothée Chalamet xuân sắc trong vai Bob Dylan thời trẻ cho ta thấy rõ: thế nào là một diễn viên giỏi và thế nào là một diễn viên lớn. Chalamet vào vai một nhân vật có thật, và anh có mọi lợi thế để vào vai diễn ấy. Anh đẹp. Còn ai có thể tái hiện một Bob Dylan 20 tuổi có khả năng khiến Joan Baez vừa nghe trình diễn một ca khúc, đã “tất nhiên, trong lòng tôi hoàn toàn đổ vụn, vì nó đẹp quá”, ngoài Timothée Chalamet? Vóc dáng mảnh khảnh, mái tóc xoăn rối, đôi mắt sâu thẳm như luôn chu du vào một cõi mà kẻ khác khó bề thấy được, giọng hát thô mộc như hỗn hợp của “cát và hồ dán”, Chalamet đầy đủ thẩm quyền vào vai một chàng trai vừa ngọt ngào vừa xấu tính, một nghệ sĩ ác nghiệt với những người yêu mình mà họ vẫn không thể không yêu anh và tha thứ cho anh. Nói cách khác, Chalamet sở hữu đầy đủ mọi tố chất để triệu hồi huyền thoại Bob Dylan từ quá khứ.
A Complete Unknown của James Mangold là một bộ phim khiến ta hiểu lầm mình hiểu được Bob Dylan, rằng quyết định chuyển sang chơi guitar điện của anh - một khoảnh khắc quan trọng trong lịch sử nhạc đại chúng - chỉ đến từ ý muốn trở thành người mà tất cả khán giả đều không muốn anh trở thành. Bob Dylan hiện ra trong phim phức tạp một cách… đơn giản, đơn giản vì ta có thể gói lại bằng mấy chữ: anh là một người nổi loạn, một kẻ phá giới, một người lập dị. Tất cả những điều ấy đều đúng như kì vọng, chính điều ấy khiến cho nó đáng thất vọng. Bob Dylan là một gã du ca và một ngôi sao, một nhà thơ và một con chiên, một người tình và một triết gia, một nhà cách mạng và một người “đào tẩu”, một người kể chuyện nguyên bản và cũng là một người nhặt nhạnh từ người khác, hay như ông tự hoạ: “Tôi sẽ chơi cả sonata của Beethoven và prelude của Chopin. Tôi có nhiều gương mặt”. Sự xung khắc liên tục bên trong Bob Dylan là không thể giải thích, vì thế những tác phẩm hay nhất về Bob Dylan luôn phải phá vỡ những cấu trúc thường tình: I’m Not There của Todd Haynes phân mảnh sáu nhân cách của Dylan cho sáu diễn viên thuộc nhiều độ tuổi và giới tính; Rolling Thunder Revue của Martin Scorsese mang tiếng là tài liệu nhưng lại cài cắm những chi tiết tưởng tượng, thách thức ý niệm về sự phân biệt giữa thật/ giả, hư cấu/ phi hư cấu, chính sử/ dã sử. Ngay từ đầu, những tác phẩm ấy đã thiết lập rằng, đừng hòng nhìn vào bản lai diện mục của Bob Dylan, bởi làm gì có cái gọi là “bản lai diện mục” của con người đó.
Trong khi đó, vai diễn hồng y Lawrence hoàn toàn là một nhân vật tưởng tượng. Vậy mà khi xem Conclave, ta vẫn có cảm giác đó là phim tiểu sử. Là bởi vì Fiennes đã điều khiển vai diễn của mình (chứ không phải bị vai diễn điều khiển) đến mức ông biến hồng y Lawrence trở thành một nhân vật đầy khả tín, và có thật hay không có thật trong lịch sử cũng không còn quan trọng nữa, ta biết vai ấy có thật. Một sự hiện hữu mà phim khai sinh. Khác hoàn toàn với một hình nhân cắt dán như cái bóng của Bob Dylan mà Timothée Chalamet diễn đạt trong A Complete Unknown. Nhưng tất nhiên, nói thì nói thế, ta vẫn biết nếu trong lứa diễn viên hiện thời có ai có thể trở thành một diễn viên vĩ đại, một diễn viên kiệt xuất trong vòng 20 năm nữa, một phiếu vẫn dành cho Timothée Chalamet, với tất cả những tố chất và khát vọng của anh.
Vẫn còn rất nhiều những cặp đối xứng mà ta có thể gọi ra trong Oscars 2025. Cũng như người ta có thể đặt trục toạ độ vào bất cứ đâu trong không gian này, có thể lấy bất cứ điểm mốc nào để so sánh phim, và khi nhìn theo cách ấy thì chẳng có tác phẩm nào là cô lập với tác phẩm nào. Bạn luôn có thể nhặt đại ra hai tác phẩm bất kì, và khi xem kĩ, bạn sẽ thấy chúng luôn có một cuộc đối thoại, dù rõ ràng hay mơ hồ, dù chặt chẽ hay lơi lỏng. Nhưng dung lượng thì cũng có hạn thôi, và lại, nói nữa mất hay, mỗi người xem hãy tự kẻ những trục toạ độ của riêng mình.
Còn để khép lại, hay là ta hãy nói đến một khoảnh khắc hài hước ở Oscars năm nay, khi công bố giải Bài hát trong phim xuất sắc, và người được mời tới trao giải là huyền thoại của một trong những ban nhạc lớn nhất mọi thời The Rolling Stones, Mick Jagger. Jagger vừa xuất hiện, cả hội trường nao nức đứng lên. Ông dí dỏm bảo, thực ra thì ông không phải lựa chọn đầu tiên của nhà sản xuất cho vai trò này, họ muốn mời Bob Dylan cơ, nhưng Bob bảo, kiểu gì A Complete Unknown chả thắng giải này, nên Bob sẽ không xuất hiện, hãy nhường cơ hội cho người khác trẻ trung hơn. “Tôi trẻ trung hơn đây, để đấy cho tôi làm”, Mick Jagger tuyên bố. Ai nấy cười ồ trước câu chuyện đùa cợt ấy. Mick Jagger trẻ hơn thật. Bob Dylan năm nay 83 tuổi. Jagger mới có… 81 thôi. Nhớ hồi năm 2008, giải Phim hay nhất trao cho No Country for Old Men (Không có đất cho những người già). Nhưng không, điện ảnh có đất cho tất cả mọi người, người già, người trẻ, người không già không trẻ, người cười, người khóc, người can thiệp tạo hoá và người không, người chạy trốn và người không chạy trốn.
H.T
VNQD