Phóng sự - Những bài học mẫu mực

Thứ Tư, 25/05/2022 09:36

. NGUYỄN THANH


1. Những con số biết nói

Bài học về cách viết phóng sự điều tra trong Bản án chế độ thực dân Pháp mà các nhà báo hôm nay rất nên học tập là tìm hiểu, điều tra hết sức kỹ càng để có các số liệu cụ thể, bởi vì thuyết phục người đọc về một vấn đề kinh tế, xã hội… nào đó thì không gì thuyết phục hơn là các con số. Đây là các con số được tác giả đưa ra :

“Công cuộc khai hoá người Marốc bằng đại bác vẫn tiếp diễn.

Một viên chỉ huy bộ binh Duavơ đóng ở Xéttát, đã nói với binh sĩ như thế này: “Chúng ta phải diệt cho xong lũ man rợ này. Đất Marốc giàu khoáng sản và nông sản. Chúng ta, những người Pháp, những người văn minh, chúng ta đến đây với hai mục đích: khai hoá và làm giàu cho chúng ta”.

Viên chỉ huy ấy nói đúng đấy. Nhất là ông ta đã thành thật thú nhận rằng người ta sang thuộc địa là để cướp bóc người bản xứ. Bởi vì chỉ sau 10 năm đặt dưới chế độ bảo hộ, xứ Marốc đã bị người châu Âu cướp mất 379.000 hécta đất trồng trọt, trong đó 368.000 hécta đã lọt vào tay những người Pháp khai hoá. Diện tích Marốc có 815.000 kilômét vuông; nếu công cuộc khai hoá cứ tiếp tục với đà ấy thì chẳng mấy năm nữa, người dân Marốc khốn khổ sẽ không còn lấy một tấc đất tự do nào để trồng trọt và sinh sống trên Tổ quốc mình mà không phải chịu cái ách bóc lột và nô dịch của chủ nghĩa thực dân”. Cấu trúc bề ngoài văn bản của ví dụ này thì mở đầu là lời của một viên sĩ quan chỉ huy Pháp nói với binh lính Pháp, lời nói trực tiếp đã gián tiếp làm bật ra bản chất dã man và ăn cướp của “Chúng ta, những người Pháp, những người văn minh”. Phần giữa là các con số chỉ thời gian không gian cụ thể vùng đất đã ăn cướp được. Trên cơ sở đó người viết đưa ra lời bình luận về tương lai mờ mịt thảm hại của dân Marốc bản xứ: “cứ tiếp tục với đà ấy thì chẳng mấy năm nữa, người dân Marốc khốn khổ sẽ không còn lấy một tấc đất tự do nào để trồng trọt và sinh sống trên Tổ quốc mình”. Đúng là một bi kịch mất nước khốn khổ, mất nước thì sẽ mất tất cả! Cũng có trường hợp tác giả chỉ cần đưa ra những con số để tự chúng nói lên bản chất của vấn đề, lời của tác giả chỉ mang chức năng bổ sung, đưa đẩy:

“Hết hành vi điên rồ này đến hành vi điên rồ khác đã phung phí đồng tiền mà người dân An Nam khốn khổ đã phải đổ mồ hôi nước mắt mới kiếm được. Chúng tôi chưa biết đích xác số tiền chi tiêu cho vua An Nam sang ngao du bên Pháp, chỉ biết rằng, để đợi ngày lành cho con Rồng tre xuống tàu, người ta đã phải bồi thường cho tàu Poóctốtxơ trong bốn ngày chờ đợi, mỗi ngày 100.000 phrăng (tức là 400.000 phrăng tất cả). Tiền tàu hết 400.000 phrăng. Tiền chiêu đãi hết 240.000 phrăng (chưa kể tiền lương trả cho bọn mật vụ để theo dõi người An Nam ở Pháp), 77.600 phrăng trả tiền ăn ở tại Mácxây cho lính khố xanh dùng để “bồng súng chào” Cụ lớn và Hoàng thượng”. Tài năng của nhà phóng sự là ngoài các con số còn phải biết làm chủ, phân tích để chúng nói lên vấn đề. Sự tốn kém ngân quỹ, chỉ một việc “để đợi ngày lành cho con Rồng tre xuống tàu...” đã là quá sức tưởng tượng. Thế thì bạn đọc sẽ suy luận ra ngay, mới chỉ có bốn ngày thôi mà đã tốn như vậy thì cả cuộc hành trình dài hàng tháng sẽ gấp bao nhiêu lần. Để tăng cường chất mỉa mai tác giả sử dụng một ẩn dụ trào phúng: “con Rồng tre” tức Khải Định, nếu nói thẳng “vua Khải Định” thì sẽ không nói được tính chất bù nhìn, tính chất “đồ chơi” mà vô dụng của tên vua bán nước hại dân này. Và đưa ra những sự thật ngược đời: “người ta còn cho mời ba chục viên chức cao cấp ở các thuộc địa về; bọn này phè phỡn ở đường phố Cannơbie mà vẫn được lĩnh phụ cấp cả ở triển lãm lẫn ở thuộc địa”. Cannơbie, tức La Cannebiere, tên một đường phố ở Macxây, một nghịch lý đang ở Macxây mà vẫn được hưởng phụ cấp cả hai nơi: Macxây và thuộc địa!

Trong Bản án chế độ thực dân Pháp, chương VI Tệ tham nhũng trong bộ máy cai trị, Nguyễn Ái Quốc thực sự “khóa mõm” đối tượng nhờ các con số không thể chối cãi: “Ngân sách Nam Kỳ chẳng hạn, năm 1911 là 5.561.680 dồng (12.791.000 phrăng); năm 1912 là 7.321.818 đồng (16.840.000 phrăng). Năm 1922, ngân sách đó lên tới 12.821.325 đồng (96.169.000 phrăng). Một con tính đơn giản cho chúng ta thấy giưa hai năm 1911 và 1922, trong ngân sách của thuộc địa này có một sự chênh lệch là 83.369.000 ph răng. Số tiền đó chạy vào đâu? Tất nhiên là các vào các khoản chi về nhân sự, vì các khoản này ngốn gần hết 100% tổng số thu”.

2. Những sự thật rõ ràng

Trên báo La Vie Ouvrière số 100, ngày 1/4/1921 có bài báo 10 trường học, 1500 đại lý rượu rất được dư luận Pháp quan tâm, nội dung bài báo thuật lại lá thư của Toàn quyền Đông Dương, ông Anbe Xarô gửi các công sứ phải hết sức giúp đỡ Nha thương chính đặt thêm đại lý thuốc phiện và rượu. Cuối bài viết là lời bình luận của tác giả. Có một quy luật tâm lý thông thường trong đời sống xã hội: Kẻ xấu thường phải đeo mặt nạ, vì nếu không thì cái xấu trơ ra nên dễ bị mọi người xa lánh, ghê tởm, lên án. Cũng vì phải đeo mặt nạ nên kẻ xấu cũng có thừa những âm mưu, thủ đoạn để che giấu thiên hạ. Người lột mặt nạ phải là người cao tay biết kẻ xấu đeo mặt nạ gì, có âm mưu thủ đoạn nào thì khi “lột mặt nạ” cả kẻ bị lột lẫn độc giả mới “tâm phục, khẩu phục”. Khi Nguyễn Ái Quốc dùng chính lá thư của quan Toàn quyền yêu cầu các công sứ phải đặt thêm đại lý rượu và thuốc phiện chính là một cách dùng “gậy ông đập lưng ông”, nói “khai hoá văn minh” thực ra là phản văn minh, phản khai hoá, vì bắt dân hút thuốc phiện và uống thật nhiều rượu để cho họ ngu đi cho dễ bề cai trị.

“Kính gửi ông Công sứ

Tôi trân trọng yêu cầu ông hết sức giúp đỡ Nha thương chính đặt thêm đại lý thuốc phiện và rượu, theo chỉ thị của ông tổng giám đốc Nha thương chính Đông Dương...”. Ký tên: Anbe Xarô”.

Lời bình luận của tác giả thực ra không bình luận gì cả mà chỉ đưa ra con số, những con số biết nói, không bình luận mà lại là bình luận sắc sảo nhất, chính xác nhất, có sức thuyết phục nhất: “Lúc đó có một nghìn năm trăm ty rượu và thuốc phiện cho một nghìn làng trong khi chỉ có mười trường học cũng cho bấy nhiêu làng. Ngay cả trước bức thư nổi danh đó, người ta đã cho 12 triệu người bản xứ - kể cả đàn bà và trẻ con - nốc 23 đến 24 triệu lít rượu mỗi năm.

Lời bình luận nào cũng là thừa”.

Người Pháp sang nước An Nam khốn khổ không phải là đem “văn minh” đến để “khai hoá” đất nước lạc hậu này như họ từng rêu rao tuyên bố, mà là để bóc lột vơ vét làm giàu cho chính quốc. Muốn vơ vét bóc lột được nhiều thì phải có chính sách cai trị, mà thích hợp nhất là chính sách ngu dân, ngu dân bằng cách cho họ uống thật nhiều rượu và hút thuốc phiện. Để vạch trần bản chất vô cùng đểu giả này nếu là Nguyễn Ái Quốc, Phan Bội Châu hoặc một nhà yêu nước An Nam nào đó thì dư lụân chắc sẽ không tin. Tác giả đã lấy ngay chính bản thông tư của ông Anbe Xarô, khi ông làm Toàn quyền Đông Dương gửi cho tất cả các viên công sứ như sau:

“Để công việc tiến hành có kết quả, tôi xin gửi ông một bản danh sách những đại lý cần đặt trong các xã đã kê tên; tới nay phần đông các xã này vẫn hoàn toàn chưa có rượu và thuốc phiện.

Thông qua các quan và các xã trưởng Cao Miên, ông có thể dùng ảnh hưởng lớn của ông để làm cho một số tiểu thương người bản xứ thấy rằng buôn thêm rượu và thuốc phiện là rất có lợi…

Chúng ta chỉ có thể đạt được kết quả mỹ mãn, nếu chúng ta đồng lòng phối hợp chặt chẽ và liên tục, vì lợi ích tối đa của công khố.

Ký tên: Anbe Xarô

Toàn quyền Đông Dương”.

Thật đúng là “hai năm rõ mười”, không còn trắng đen lẫn lộn, lời của chính viên Toàn quyền, hơn nữa lại là “thông tư” mang rõ tính mệnh lệnh hành chính của cả một “hiến pháp”, dĩ nhiên đây là “hiến pháp” của kẻ cướp, đểu giả, vô nhân tính!

Con số là sự thật khó chối cãi nhất. Những dẫn chứng sau nói rõ nhất về bản chất bóc lột phi nhân tính đến tận cùng của chủ nghĩa thực dân đối với người bản xứ thuộc địa. Ví dụ sau chỉ nói về lĩnh vực thực dân thuên dân bản xứ khai thác mỏ trong 10 năm từ 1911-1921:

“Trong lúc các nhà đi khai hóa của chúng ta ngày càng béo ra với những món lợi nhuận khổng lồ, thì sau đây là những điều đã xảy ra đối với nam nữ công nhân người bản xứ:

1.465 tai nạn chết người.

1.871 người chết

2.212 người bị thương nặng.

40% vô sản hầm mỏ là phụ nữ và trẻ em...”.

Trong đối thoại tranh luận thì không gì thuyết phục bằng con số cụ thể. Với những con số trên Nguyễn Ái Quốc đã thực sự “khóa mõm” đối tượng!

3. Những dẫn chứng thực tế

Nguyễn Ái Quốc cực lực lên án bọn thực dân, ngoài tội ác “bắt lính và ăn cướp”, nguy hiểm hơn còn đầu độc dân bản xứ: “Còn ở xứ An Nam đau khổ thì ngoài việc bắt lính và ăn cướp như ở xứ Đahômây kia, bè lũ thực dân còn triệt để thi hành chính sách ngu dân, ngu dân bằng cách bắt họ hút thuốc phiện và uống rượu”. Mà đây chỉ là một trong những thủ đoạn bắt người dân phải mua rượu của các đại lý thực dân:

“Đây là một sự kiện đầy ý nghĩa của một viên chức đứng đầu tỉnh Sơn Tây, một tỉnh ở Bắc Kỳ.

Số dân tỉnh này ước tính chỉ độ 200.000 người. Nhưng để nâng số lượng rượu phải tiêu thụ lên, số dân ấy bỗng nhiên tăng vọt nhanh như chớp tới 230.000 người. Nhưng vì 230.000 dân này uống quá ít, viên công sứ Sơn Tây đã ra công văn một năm đẩy số lượng rượu tiêu thụ lên 560.000 lít.

Ngay lập tức, viên công sứ được thăng cấp và được khen...”. Ngay chỉ một chính sách bắt mua rượu quái đản này cũng đủ thấy sự “bảo hộ” dã man đến chừng nào. Ngược lại, không hề bảo hộ mà là sự huỷ hoại cả tinh thần và thể xác con người, là vơ vét, bóc lột để thoả mãn cái dạ dày của con quái vật thực dân! Chủ nghĩa thực dân, ở đâu cũng thế, là phản văn minh, phản nhân đạo, là một trong những thứ chủ nghĩa phản động xấu xa nhất của lịch sử nhân loại!

Đây là một “đối thoại” mang tính “lật tẩy” tâm địa thực dân:

“Dân một làng Bắc Kỳ, buộc phải uống rượu, thấy nguy cơ đe dọa ấy, đã kêu với viên quan người Pháp “của họ” rằng: “Ngay đến cái ăn, chúng tôi cũng không có gì cả”. Quan đáp: “Chúng mày quen ngày ba bữa, bây giờ bớt đi một bữa, hay nếu cần thì bớt đi một bữa rưỡi để có thể mua rượu của nhà nước”.

Để lừa bịp dư luận, khi áp đặt một hệ thống chính trị có lợi cho thực dân ở bất cứ một thuộc địa nào, người Pháp đều cố nặn ra một thể chế bù nhìn. Nguyễn Ái Quốc đã lột trần cái gọi là dân chủ ở xứ Đông Dương, dân chủ thực dân không hề có gì gọi là thực chất mà chỉ là giả hiệu: “Xứ Nam Kỳ do một thống đốc cai trị, viên thống đốc này do sắc lệnh tổng thống Pháp bổ nhiệm. Để làm tròn nhiệm vụ cao cả của mình, vị quan cao cấp này dựa vào một hội đồng hỗn hợp gồm cả người Pháp lẫn người An Nam, gọi là hội đồng quản hạt. Một trong những quyền hạn chắc là quan trọng nhất của hội đồng này là hằng năm biểu quyết dự toán ngân sách của thuộc địa. Chúng tôi xin nói ngay rằng nguồn thu của ngân sách ấy là các khoản thuế trực thu và gián thu do người An Nam nộp, còn các khoản dự chi, thì trên nguyên tắc (nhưng không bao giờ trên thực tế!) là phải được chi tiêu cho những công cuộc có lợi cho người An Nam; tóm lại là quyền lợi của người An Nam được giao phó cho cái hội đồng quản hạt ấy. Thế nhưng cái hội đồng quản hạt quý hoá này lại gồm nhiều người Pháp hơn là người An Nam: có 18 người Pháp, thì 12 là đại biểu do tuyển cử bầu ra, 6 là đại biểu của các công ty, phòng thương mại, phòng canh nông v.v., và 6 người An Nam. Cứ cho rằng luôn luôn đủ mặt đi nữa thì 6 phiếu của người An Nam kia tài nào mà chống lại được 18 phiếu của người Pháp? Vì thế chính phủ cứ việc tuỳ ý mà dự toán và chắc chắn là tất cả các khoản dự toán đều đã được biểu quyết trước rồi”. Các ngôn từ mang sắc thái mỉa: nhiệm vụ cao cả, hội đồng quản hạt quý hoá đã góp phần làm nổi bật cái ngược đời, vô lý mà vẫn tồn tại, tồn tại một một cách hợp pháp, công khai. Đúng là dân chủ thực dân là dân chủ giả hiệu, ngược đời mà trắng trợn! Tác giả đưa ra số liệu cụ thể không thể chối cãi để phơi bày ra một sự thật hiển nhiên: Hội đồng quản hạt ấy có 18 người Pháp và chỉ có 6 người An Nam. Chỉ cần con số này đã lật tẩy bản chất của cái dân chủ thực dân chính là áp đặt, ép buộc và ra lệnh!!!

Phanh phui chính sách ngu dân để dễ bề cai trị, Nguyễn Ái Quốc để cho chính những kẻ “tai to mặt lớn” thực dân Pháp tự nói ra sự thật. Đây là sự trung thực nhất về tình hình An Nam: “Đại tá Bécna viết: Về phương diện tinh thần, người Pháp không tổ chức một nền giáo dục mới thay thế cho nền giáo dục An Nam mà họ đã bỏ đi. Họ chỉ xây dựng được một ít trường học để đào tạo ra những con vẹt, những người vong bản thiếu đạo đức và thiếu cả kiến thức phổ thông.

Trong một bản báo cáo về tình hình Đông Dương, tướng Penơcanh cũng viết: Trong 50 năm chiếm đóng ở Nam Kỳ và 25 năm chiếm đóng ở Bắc Kỳ, những trường học Pháp không đào tạo lấy được một người An Nam thật sự có học thức.

Ông Mácxơ, văn sĩ thuộc địa, đã viết câu sau đây lột tả được đúng tư tưởng đang thống trị trong đầu óc của các nhà cai trị của chúng ta: Chúng ta chỉ cần dạy tiếng Pháp cho người An Nam, dạy cho họ biết đọc, biết tính toán chút ít thôi; biết hơn nữa chỉ là thừa vô ích”. Đây là những lời nhận định có trọng lượng, chính xác, vô tư khách quan về một nền giáo dục “vong bản thiếu đạo đức và thiếu cả kiến thức phổ thông”, tức là một nền giáo dục giả dối, một nền giáo dục tay sai! “Văn minh” mà thực dân Pháp “khai hoá” ở nước An Nam này là như thế! Giáo dục thì phản động như vậy, còn công lý, tác giả dẫn lời một nghị sĩ và những người Pháp có thẩm quyền trong lĩnh vực toà án, kiểm sát: “Nói về nền công lý Pháp ở Angiêri, một nghị sĩ Pháp đã viết một cách châm biếm rằng: “Pháp luật, công lý với người bản xứ ư? Thôi đi! Chỉ có ba toong, súng lục, súng trường, đó mới là những thứ xứng đáng với lũ sâu bọ ấy!”.

Một người Pháp khác, cũng kêu lên như thế này: “Ở Đông Dương cũng đúng như vậy đấy, ở đây “công lý” nằm trong tay những tên quan lại thiếu trách nhiệm, hoặc khi chúng ta phải thực hành công lý, thì bằng súng!”. Một người Pháp khác viết: “Nếu viên chủ sự viện kiểm sát xét kỹ theo đúng tinh thần pháp lý thì trong số hai nghìn đến hai nghìn rưởi biên bản lập hằng năm ở Bắc Kỳ, không có biên bản nào là có giá trị đối với Pari cả”. Và họ nói ra sự thật về cuộc “khai hoá” bằng dùi cui, súng:

“Tôi mạn phép nói rằng cách khai hoá đánh vỡ đầu người ta chứ không cải biến đầu óc cho người ta, như thế là hơi thô bạo. Đây là những người đang sống yên ổn trong nhà họ. Bỗng nhiên chúng ta xông vào đất đai không phải của chúng ta, mang danh nhân đạo, chúng ta chém giết những người bản xứ hoặc đuổi họ ra khỏi nhà. Chính cái đó đã gợi cho họ một ý niệm kiêu hãnh đối với cái văn minh ấy. Vì tình nhân loại, người ta giết; vì tình nhân loại, người ta cướp đoạt; vì tình nhân loại, người ta bóc lột những người bản xứ!” (E.Macác)”. Như một thành ngữ của người Việt: “vạch áo cho người xem lưng”, tức là tự vạch ra những khiếm khuyết của mình, phơi ra những cái xấu của mình cho thiên hạ biết, nhưng ở đây, không phải là những người Pháp ý thức về “nói xấu” chính họ mà họ chỉ nói trung thực những gì họ biết, cũng có thể vô tình họ nói ra sự thật, còn tác giả Nguyễn Ái Quốc chỉ là người ghi chép laị những lời nhận xét ấy. Thế là sự thật được phơi bày: chỉ có cuộc xâm lược, cướp của, giết người của thực dân Pháp trên đất An Nam mà thôi.

Theo lôgich thông thường thì người “lột mặt nạ” bao giờ cũng ở tầm cao hơn rất nhiều kẻ “đeo mặt nạ”. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đứng ở vị thế chính nghĩa, đạo lý, lịch sử để “lột mặt nạ” Tổng thống Mỹ. Là người đại diện cho nhân dân Việt Nam, đại diện cho các dân tộc bị áp bức, bị xâm lược, tiếng nói của Người không chỉ mang tính cá nhân mà còn là tiếng nói của cả dân tộc, cao hơn là của lương tri, chính nghĩa. Vì vậy tìm hiểu những bài viết của Người cũng cần đặt trong hoàn cảnh ấy, không chỉ là tầm một cá nhân mà còn là tầm thời đại. Lời văn của Người vượt lên trên những thủ pháp nghệ thuật đơn lẻ, cá biệt để vươn tới tầm phổ quát của tư tưởng lớn: giải phóng con người, giải phóng dân tộc, đưa con người tới hạnh phúc, tự do. Lời “thách” của Người không chỉ cho một Tổng thống Mỹ mà còn cho cả chủ nghĩa đế quốc, cho những thế lực đi ngược lại sự tiến bộ vì con người:

“Nhân dịp này, tôi thách Tổng thống Kennơđi trả lời mấy câu hỏi sau đây:

- Việt Nam xa cách Hoa Kỳ hàng vạn dặm. Nhân dân Việt Nam và nhân dân Hoa Kỳ không thù oán gì nhau. Ông có lý do gì mà gây nên cuộc chiến tranh xâm lược ở miền Nam Việt Nam, hoang phí hàng tỉ đôla của nhân dân Hoa Kỳ để ủng hộ một chính quyền thối nát độc tài, đã bị nhân dân miền Nam Việt Nam phỉ nhổ? Ông có quyền gì mà bắt buộc hàng vạn thanh niên con em người Hoa Kỳ sang giết hại người miền Nam Việt Nam vô tội, rồi họ cũng bị chết trong cuộc chiến tranh phi nghĩa, bẩn thỉu ấy?...

Vì sao Tổng thống Kennơđi lại hành động tự sát một cách u mê, điều mà nghị sĩ Kennơđi đã cảnh cáo một cách sáng suốt?...

Tổng thống Kennơđi có muốn hay là không muốn làm theo dư luận chính đáng của nhân dân Mỹ?”. Nếu xét trên văn bản chúng ta sẽ thấy các thủ pháp “lột mặt nạ” như hỏi vào những chỗ sơ hở nhất, điểm yếu nhất, dùng “gậy ông đập lưng ông”… Đấy chỉ là những thao tác thông thường của các nhà trào phúng. Nghệ thuật văn chương Hồ Chí Minh cao hơn nhiều những thủ pháp này, nói đúng hơn tầm của nhà chính trị Hồ Chí Minh cao hơn nhiều tầm của một nhà trào phúng để vươn tới tầm cao chính nghĩa của thời đại, của lịch sử để phán xét, để buộc tội chủ nghĩa đế quốc, buộc chúng phải dừng bước đi phi nghĩa đối đầu với lương tâm nhân loại. Do vậy trong ví dụ trên, không chỉ là mấy câu hỏi đơn thuần của cá nhân hướng tới cá nhân mà là những vấn đề của công lý lịch sử: Tại sao chủ nghĩa đế quốc tự cho mình quyền đi xâm lược nước khác? Tại sao chủ nghĩa đế quốc luôn đi ngược lại dư luận tiến bộ của nhân dân nói chung và các trí thức nói riêng? Tại sao một người khi chưa là Tổng thống Mỹ thì có suy nghĩ tích cực nhưng khi là Tổng thống Mỹ thì lại ngược lại? Phải chăng bản chất hiếu chiến, xâm lược, dã man của chủ nghĩa đế quốc đã biến sự sáng suốt của con người thành sự u mê, mà Tổng thống Kennơđi là một ví dụ? Một ý nghĩa phổ quát toát ra: muốn thế giới hoà bình, muốn con người hạnh phúc, muốn con người thông minh, tỉnh táo, muốn con người luôn có những suy nghĩ tốt đẹp thì phải loại bỏ chủ nghĩa đế quốc!

N.T

VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Vòng quay ra con số vòng xoay ra phận đời

Vòng quay ra con số vòng xoay ra phận đời

Tôi nhớ cho đến đầu năm lớp 9, một đêm Dưỡng đạp xe qua nhà tôi cho lại bộ sách rất mới. Dưỡng bảo nghỉ học. Chỉ vậy thôi rồi Dưỡng đi... (TỐNG PHƯỚC BẢO)

Cây thốt nốt quỳ trên núi Tưk-cot

Cây thốt nốt quỳ trên núi Tưk-cot

Tôi được nhiều lần sang Campuchia cùng các đội chuyên trách tìm kiếm, cất bốc, hồi hương hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hi sinh qua các thời kì chiến tranh... (HỒ KIÊN GIANG)

Nguyên mẫu trong hai truyện vừa đầu tay viết cho thiếu nhi của tôi

Nguyên mẫu trong hai truyện vừa đầu tay viết cho thiếu nhi của tôi

Khi viết cuốn Những tia nắng đầu tiên tôi đã hóa thân vào các em nhỏ học sinh lớp 6 của năm học 1969 - 1970 ở Hà Nội... (LÊ PHƯƠNG LIÊN)

Bà Minh của tôi

Bà Minh của tôi

Sống ở Hà Nội, trở thành một công dân có hộ khẩu đến nay đã hơn hai thập kỉ, nhưng chưa bao giờ tôi có cảm giác mình thuộc về Hà Nội... (ĐỖ BÍCH THÚY)