Đấu tranh phản bác luận điệu hạ bệ thần tượng nhà thơ mù yêu nước Nguyễn Đình Chiểu!

Thứ Tư, 13/04/2022 17:14

. PGS.TS NGUYỄN THANH TÚ

 

Hội đồng UNESCO đã thông qua danh sách những Danh nhân văn hóa được vinh danh trong năm 2022. Việt Nam có hai nhà thơ lớn là Hồ Xuân Hương (nhân kỉ niệm 250 năm ngày sinh) và Nguyễn Đình Chiểu (nhân kỉ niệm 200 năm ngày sinh)... Với Nguyễn Đình Chiểu, một căn cứ quan trọng để UNESCO khẳng định là trước tác thơ yêu nước, giàu giá trị nhân đạo, trân trọng, quý mến con người, mang ý nghĩa văn hóa giáo dục sâu sắc, có tầm ảnh hưởng lớn. Lục Vân Tiên – tác phẩm đã được dịch ra ba thứ tiếng Anh, Pháp, Nhật được chào đón, có một đời sống riêng ở các xứ sở mới dù khác biệt về văn hóa nơi sinh ra, là một đóng góp văn hóa lớn lao của tác giả. Thế nhưng một số tờ báo mạng người Việt ở hải ngoại lại thể hiện sự cay cú tìm mọi cách chứng minh Nguyễn Đình Chiểu sáng tạo tác phẩm chỉ là sự thể hiện cái bi kịch bản thân chứ không hề có chuyện “tẩy chay người Pháp”. Ông viết Văn tế nghĩa sỹ Cần Giuộc là viết theo gợi ý của một số người rồi sau đó họ chỉnh sửa lại... Vận dụng hướng nghiên cứu liên văn hóa đang được hưởng ứng rộng rãi trên thế giới, bài viết là một cách phản bác lại các luận điệu trên!

1. Nguyễn Đình Chiểu và một tiểu sử và thời cuộc liên văn hóa.

Nguyễn Đình Chiểu tự Mạch Trạch sinh năm 1822 tại Làng Tân Thới, Phủ Tân Bình, huyện Bình Dương, Tỉnh Gia Định (nay thuộc Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh). Mất năm 1888 tại Ba Tri (Bến Tre). Xuất thân gia đình nhà nho, năm 12 tuổi được cha gửi ra Huế học, năm 19 tuổi quay lại Gia Định, thi đỗ tú tài.Năm 1847 trở lại Huế chờ thi khoa Kỷ Dậu 1849 nhưng nhận được tin mẹ mất nên bỏ thi về quê chịu tang. Trên đường về bị ốm nặng, mù cả đôi mắt. Thời gian chữa bệnh được một danh y truyền dạy nghề thuốc.

Giặc Pháp xâm lược, không thể trực tiếp ra chiến trường, ông nhiệt tình tham gia vào những phong trào yêu nước, dự bàn mưu tính kế chống giặc. Là nhà thơ ông dùng cây bút làm vũ khí động viên khích lệ tinh thần chiến đấu của nhân dân.

Dưới góc nhìn “liên văn hóa” hiện đại, có thể nhìn thấy ở Nguyễn Đình Chiểu là sự hội tụ ba luồng văn hóa: tinh thần yêu thương con người trong đạo Nho; văn hóa truyền thống yêu nước Việt Nam; không khí sục sôi đuổi giặc Pháp xâm lược ở buổi đương thời.

Câu cảm thán “Hỡi ôi!/ Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ” trong Văn tế nghĩa sỹ Cần Giuộc khái quát cao nhất thời cuộc Nguyễn Đình Chiểu sống. Đó là thời loạn lạc, nhưng chính trong thời điểm “nước sôi lửa bỏng” tinh thần yêu nước của nhân dân thể hiện cao độ nhất. Nguyễn Đình Chiểu may mắn được sống, hít thở trực tiếp không khí ấy. Vào lúc khắp Nam bộ rền vang tiếng súng, 6 tỉnh Nam Kỳ rơi vào tay giặc, ông về quê vợ ở Cần Giuộc rồi dời về Ba Tri – Bến Tre rồi trút hơi thở cuối cùng trong nỗi đau mất nước.

Nguyễn Đình Chiểu chịu ảnh hưởng sâu sắc Nho học nhưng rất gần gũi với dân nghèo. Không ngẫu nhiên hầu hết các tác phẩm chính của ông đều được sáng tác bằng chữ Nôm. Thời cuộc ông sống đạo Phật vẫn có ảnh hưởng lớn, đạo Công giáo đang mạnh dần theo bước chân xâm lược của người Pháp. Ông phản đối Phật và Công giáo, nhưng như một quy luật phản tiếp nhận cũng là một tiếp nhận. Tức ông đã tìm hiểu đủ độ sâu sắc để hiểu rồi “ghét” hai tôn giáo này. Lẽ tự nhiên trong tư tưởng ông vẫn có bóng dáng văn hóa Phật giáo và Công giáo. Giặc Pháp sang tất yếu kéo theo văn hóa phương Tây, mà một học giả như ông, ít nhiều cũng tìm hiểu và tiếp thu. Những điều ấy đủ cho thấy Nguyễn Đình Chiểu là một tác giả liên văn hóa tiêu biểu của thời đại bấy giờ!

Cái bi kịch của Nguyễn Đình Chiểu lại tạo ra sự may mắn cho văn học nước nhà. Dấu ấn bi kịch cá nhân và bi kịch thời đại hằn sâu vào thế giới tác phẩm Cụ Đồ Chiểu để phát ra những ánh sáng lạ, trong đó có những ánh sáng liên văn hóa mà dưới đây chúng tôi xin tìm hiểu.

Lịch sử văn học Việt Nam cảm ơn Nguyễn Đình Chiểu đã có những đóng góp lớn lao với những tác phẩm phản ánh chân thực và đau đớn về thời kỳ đau thương mất nước, đanh thép căm hờn tinh thần tố cáo tội ác kẻ thù như: Chạy giặc, Ngư tiều y thuật vấn đáp, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc,... Còn là những Dương Từ Hà Mậu; Mười hai bài thơ và bài văn tế Trương Định (1864); Mười bài thơ điếu Phan Tòng (1868); Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh (1874); Hịch kêu gọi nghĩa binh đánh Tây; Hịch đánh chuột...

Nội dung chủ yếu của thơ văn Cụ Đồ Chiểu luôn mang nặng lý tưởng đạo đức nhân nghĩa, giá trị làm người; khích lệ lòng căm thù giặc; đề cao ý chí cứu nước; ca ngợi những con người trượng nghĩa, sẵn sàng hi sinh vì dân, vì nước. Những bài học ấy ở thời điểm nước nhà bị giặc xâm lăng, các giá trị văn hóa bị đảo lộn thì càng trở nên giá trị!

2. “Lục Vân Tiên” – Viên ngọc sáng “liên văn hóa” của văn hóa nhân loại!

Thời toàn cầu hóa, liên văn hóa được mở rộng, khái quát thành trào lưu triết học liên văn hóa (The Intercultural Philosophy) hướng đến những điểm tương đồng trên nền tảng những khác biệt văn hóa. Đây là một xu hướng tất yếu, không chỉ là nhận thức đời sống từ cái nhìn dân tộc, đa chiều hơn, hướng đến những giá trị phổ quát, nhân loại, hay được gọi là mẫu số chung của văn hóa toàn cầu. Liên văn hóa rất chú tới hiệu quả giao tiếp thể hiện thành các giá trị văn hóa, là những tiêu chuẩn, những điều mong muốn tác động đến sự lựa chọn văn hóa. Liên văn hóa trong một tác phẩm cụ thể biểu hiện ở việc học tập, kế thừa, phát triển và nâng cao văn hóa dân tộc, ở tiếp nhận văn hóa có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới để làm giàu có văn hóa nước nhà. Nó được thể hiện ở cả nội dung và hình thức nghệ thuật, ở nhiều cấp độ nhưng biểu hiện tập trung ở biểu tượng, nhân vật, ngôn ngữ. Với Lục Vân Tiên thì ngay chính tác giả của nó đã rất ý thức coi đó là một “liên văn hóa”. Đây là mấy câu mở đầu: “Trước đèn xem truyện Tây Minh/ Gẫm cười hai chữ nhân tình éo le/ Hỡi ai lẳng lặng mà nghe/ Dữ răn việc trước, lành dè thân sau”. Nhưng trên thực tế là không hề có “truyện Tây Minh” nào cả. Điều này đã được cả hai giới học giả Việt, Trung xác nhận. Như vậy Nguyễn Đình Chiểu đã sáng tạo truyện trên cơ sở một thói quen tiếp biến văn hóa của phương Đông, nhất là giao lưu văn hóa Việt Trung, mà Truyện Kiều là một kết tinh tiêu biểu. Cơ bản nhất là nội dung truyện với một thế giới nhân vật sống động rất tiêu biểu cho quan niệm phương Đông về nhân nghĩa, chính tà, về tinh thần nghĩa hiệp xả thân cứu người... Trên đường đi ứng thi, Lục Vân Tiên đánh cướp cứu Kiều Nguyệt Nga. Nguyệt Nga cảm động vẽ hình chàng và nguyện suốt đời gắn bó với ân nhân. Vân Tiên gặp bao trắc trở, mẹ mất phải bỏ thi về chịu tang, bị mù, bị Trịnh Hâm lừa đẩy xuống sông. Võ Công (cha Võ Thể Loan) bội hôn đẩy Vân Tiên vào hang. Vân Tiên được người tốt và thần Phật cứu, mắt sáng lại, đi thi đỗ Trạng, vâng lệnh triều đình đi phá giặc Ô-qua. Nguyệt Nga bị ép đi cống giặc bèn ôm hình Vân Tiên nhảy xuống sông, thoát chết lại bị cha con Bùi Kiệm ép duyên. Nàng bỏ trốn rồi được thần, Phật cứu. Phá xong giặc, Vân Tiên gặp lại và cưới Nguyệt Nga. Những kẻ bất nhân bất nghĩa bị trừng phạt: Võ Công xấu hổ mà chết; mẹ con Võ Thể Loan bị cọp tha, Trịnh Hâm bị cá nuốt. Những người nhân nghĩa được đền bù xứng đáng...

Như vậy cốt truyện chịu ảnh hưởng rõ rệt của truyện cổ tích, truyện Nôm dân gian với kết cấu bổ đôi phân cực chính tà và kết thúc có hậu theo nguyên tắc “ác giả ác báo”, “ở hiền gặp lành”. Cơ bản hơn là nhân vật được xây dựng trở thành biểu tượng cho khát vọng của dân gian về con người lý tưởng mà Lục vân Tiên là một kết tinh rất đẹp: quân tử, nghĩa hiệp, dũng khí, võ giỏi văn hay, thương người... Những vấn đề này chính là liên văn hóa theo chiều dọc truyền thống (hay gọi là giao tiếp nội văn hóa- intracultural communication).

Như một ngọn lửa đặt dưới thấu kính văn hóa hội tụ ba luồng ánh sáng của ba triết học Nho, Phật, Lão, Lục Vân Tiên càng bừng cháy những ánh sáng nhân văn cao cả. Trên bầu trời liên văn hóa (intercultural) phương Đông, tác phẩm là tấm gương về đạo lý hiếu nghĩa. Đó là một thuyết minh bằng nghệ thuật sinh động cho các phạm trù “trung”, “hiếu”, “tiết”, “hạnh”. Chính tác giả đã “tuyên ngôn”: “Trai thời trung hiếu làm đầu/ Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình”. Vân Tiên là đỉnh cao của trung hiếu. Chàng đánh cướp cứu Nguyệt Nga mà không cần đòi ân huệ. “Tiểu đồng” tưởng Vân Tiên chết thật bèn làm chòi ở mả chủ mà thờ. Nguyệt Nga là kết tinh của tiết hạnh... Ở thời toàn cầu hóa xô bồ hôm nay, đạo đức xuống cấp, đạo lý bị coi thường... nhìn vào Lục Vân Tiên mới thấy những tính cách đó đích thực là tấm gương để con người soi vào mà “trau mình”. Một thời bị cái nhìn hẹp hòi chi phối tác phẩm từng bị coi là minh họa cho giáo điều phong kiến, đến nay càng thấy rõ những gì là tinh hoa sẽ không bao giờ bị vùi lấp. Con người đẹp một cách mẫu mực như Lục Vân Tiên luôn được tỏa sáng!

Nàng Nguyệt Nga, như tên gọi, mãi mãi là ánh trăng soi dọi triết lý tình thương, vị tha, chung thủy, ân nghĩa, trách nhiệm cho con người hôm nay. Nàng có một tâm hồn nghệ sĩ. Lòng kính trọng, biết ơn hay sự khâm phục một tài năng, một tấm lòng đã khiến nàng vội lấy bút vẽ mà họa một bóng hình lý tưởng. Chưa trao lời những nàng đã trao tâm hồn mình cho Vân Tiên, tự coi mình là “vợ” của chàng. Nghe tin Vân Tiên ốm chết, tiếng khóc của nàng không còn tiếng khóc thông thường mà là tiếng đau xót xa của tình thương, tình nghĩa thấu cảm cả trời đất. Chấp nhận lệnh vua phải đi cống giặc, trước khi đi, nàng làm lễ cúng “chồng”, đến thăm cha “chồng” (Lục ông) còn gửi ít tiền để ông “dưỡng già”. Chưa là dâu nhưng nàng gọi “cha”: “Một ngày một bước một xa/ Của này để lại cho cha dưỡng già”. Trong chữ “cha” ấy có biết bao đau xót của một trái tim rất biết bổn phận và trách nhiệm của người con... Ngày hôm nay đang rất cần những Nguyệt Nga như thế!!!

Nhưng “liên văn hóa” rất chung mà cũng rất riêng. “Truyện Tây Minh” chẳng có bên không gian văn hóa Trung Hoa, nó chính là hiện thân của xã hội phong kiến thối nát triều Nguyễn giữa thế kỷ XIX. Chủ đề chính của tác phẩm là vấn đề nhân nghĩa nhưng là nhân nghĩa gắn liền với nhân dân lao động. Hình tượng người anh hùng dù có bóng dáng của tiểu thuyết Minh Thanh (Trung Quốc) nhưng vẫn khác nhiều về phẩm chất. Như ở nhân vật Hớn Minh. Sau khi “bẻ giò” con quan huyện Đặng Sinh, Hớn Minh không theo con đường “hảo hán” của tiểu thuyết Minh Thanh là lên núi lập hội mà ở lại cùng Vân Tiên đánh giặc cứu dân. Rõ ràng tư tưởng nhân dân rất sâu đậm trong quan niệm Nguyễn Đình Chiểu.

Thước đo giá trị một tác phẩm là tầm ảnh hưởng. Khi mới ra đời, Lục Vân Tiên là một “hiện tượng” của tiếp nhận văn học Đàng Trong. Ông Bagiô – một nhà nghiên cứu Pháp, năm 1886 thuật kể: “Những đám người ngồi xổm, xúm xung quanh một người ăn mặc rách rưới, thường là kẻ mù lòa để nghe anh ta gân cổ lên kể chuyện Lục Vân Tiên, có khi hàng giờ mà không biết chán”. Tác phẩm được viết ra để “kể” chính là chủ ý của tác giả, thể hiện ở ngay phần mở đầu “Hỡi ai lẳng lặng mà nghe”. Vì sao vậy? Vì hồi đó hầu hết người dân mù chữ nên sáng tác để “kể” là con đường ngắn nhất đi vào công chúng. Điều này lý giải tác phẩm có cấu trúc không liền mạch mà được ngắt ra thuận lợi cho việc kể nhiều quãng, kể ở nhiều thời điểm khác nhau. Có nhà nghiên cứu nước ngoài so sánh thú vị việc này tương tự với việc nhà thơ mù Hô-me-rơ kể I-li-atÔ-đi-xê hàng chục nghìn năm trước.

Theo khảo sát xã hội học ban đầu, ở các nước lưu hành bản dịch tác phẩm đều được giới nghiên cứu và độc giả đón nhận. Họ tìm thấy ở đó một “mẫu số chung” vì con người, ca ngợi vẻ đẹp nhân tính, nhân văn mà chống lại những gì phản nhân văn. Người ta còn tìm thấy ở đó một quan niệm mỹ học về cái đẹp: là sự hài hòa, tương xứng (Vân Tiên/Nguyệt Nga), là khát vọng vươn lên vẻ đẹp tận thiện tận mỹ (Nguyệt Nga, Hớn Minh)...

Có nhà nghiên cứu nước ngoài đặt câu hỏi vì sao nhà thơ mù lại có sáng tác vĩ đại như vậy? Và ông ta tự trả lời: khi người ta “thiền” thường nhắm mắt để nhìn đời bằng con mắt nội giới bên trong. Theo nhà Phật, nếu nhìn bằng con mắt thường thì chỉ là “thông đạt sự tướng hữu vi” (nắm bắt cái vỏ bên ngoài). Phải nhìn bằng con mắt bên trong mới đạt được “thông đạt không tướng vô vi” (hiểu cái lõi sự vật). Đó là trí huệ. Nguyễn Đình Chiểu đã viết bằng con mắt trí huệ như vậy!

3. Văn tế nghĩa sỹ Cần Giuộc – một tượng đài người dũng sỹ điêu khắc bằng ngôn ngữ liên văn hóa!

Truyền thống hình tượng người lính trong lịch sử giữ nước theo con đường “liên văn hóa” với chính sách “ngụ binh ư nông” là một “nội văn hóa” được thể hiện sinh động trong văn học nghệ thuật (người lính thời Lý, Trần, Lê,...) và thể hiện rất rõ trong Văn tế nghĩa sỹ Cần Giuộc.

Tác phẩm đã điêu khắc bức tượng đài bằng ngôn ngữ liên văn hóa rất mực chân thực và cảm động:

“Nhớ linh xưa:

Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó,

Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;

Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.

Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;

Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó”

Đó là sự xuyên thấm, cộng hưởng của hai lớp ngôn ngữ nhà quê và nhà binh tạo ra một sắc thái giọng điệu rất riêng biệt của phong cách tác phẩm. Có cái quê mùa dân giã “côi cút làm ăn”, “Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ” và cái trang nghiêm của màu sắc nhà binh “cung ngựa, trường nhung”. Đặc biệt là lớp từ nhà quê kết hợp với lớp từ mới của phương Tây trong ngay một đoạn văn bản:

“Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.

Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;

Ngày xem ống khói chạy đen xì, muốn ra cắn cổ”.

Các cụm từ “mùi tinh chiên”, “thói mọi”, “bòng bong che trắng lốp”, “ống khói chạy đen xì” (chỉ giặc Pháp) không “đội trời chung” với “nhà nông” nên tất yếu dẫn tới kết quả - hành động “muốn tới ăn gan”, “muốn ra cắn cổ”!

Những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước đánh giặc bằng lòng căm thù sục sôi. Hành động quật khởi ấy không còn là hành vi của con người mà là hành vi của tạo hóa:

“Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình:

Chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”.

Chỉ có tạo hóa mới “đoạn kình”, “bộ hổ” được!

Ngôn từ “liên văn hóa” đã diễn tả rất sinh động cuộc chiến đấu giữa những người nghĩa sỹ trang bị rất thô sơ nhưng có trái tim cực kỳ dũng cảm:

“Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia,

Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.

Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh...”.

Các từ chỉ hành động ở vị trí giữa câu thơ như cái bản lề khép mở hai không gian chiến trường: những nghĩa sỹ với “rơm con cúi”, “lưỡi dao phay” và “đốt”, “đâm”, “chém” (hành động) “nhà dạy đạo”, “quan hai”, “mã tà ma ní” (kẻ cướp nước).

Thì ra đó còn là sự đấu tranh một mất một còn của hai luồng văn hóa, văn hóa yêu nước chính nghĩa và bọn xâm lược phản văn hóa. Hình tượng người nghĩa sĩ nông dân lồng lộng một vẻ đẹp của chủ nghĩa yêu nước mãi mãi đi vào lịch sử đất nước để rồi mãi mãi bất tử!

4. Thay lời kết luận:

Hầu hết các tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu đều sâu đậm tinh thần liên văn hóa. Dương Từ - Hà Mậu (1854) gồm 3.456 câu, trong đó phần lớn là thơ lục bát, có xen thơ luật Đường thơ (33 bài) và các thể thơ khác là liên văn hóa về hình thức. Nội dung câu chuyện nói lên thái độ của tác giả đối với đạo Phật và đạo Công giáo là liên văn hóa tôn giáo.Có liên văn hóa không gian tín ngưỡng (thiên đường, địa ngục) và quan niệm dân gian về “hóa kiếp” qua nhân vật tự “giải mê” trong cuộc hành trình dài đi tìm chân lý và trở về với gia đình, làng nước.

Ngư tiều y thuật vấn đáp(1867) gồm 3.642 câu, phần lớn là thơ lục bát, có xen 21 bài thơ và một số bài phú (tức liên văn hóa về hình thức) trích từ các sách thuốc Trung Hoa (là liên văn hóa nghề nghiệp ở hai quốc gia), qua đó bàn về đạo lý là liên văn hóa về tư tưởng, các tư tưởng về nghề thuốc và đạo làm người xuyên thấm vào nhau để nói rất sâu sắc quan niệm: nghề nào cũng vậy, nhất là nghề thuốc phải coi đạo lý làm người lên trên hết!

Thơ lẻ của ông cũng rất rõ liên văn hóa. Ví như câu: “Hoa cỏ bùi ngùi ngóng gió Đông/ Chúa Xuân đâu hỡi, có hay không?” (Ngóng gió Đông) thì thấp thoáng “liên văn hóa” câu thơ của Thôi Hộ (đời Đường – Trung Quốc): “Nhân diện bất tri hà xứ khứ,/ Đào hoa y cựu tiếu Đông phong” (Người không biết đi đâu/ Hoa đào năm ngoái còn cười gió Đông). “Chúa Xuân” là một ước lệ thi ca cổ điển phương Đông chỉ bề trên, tức Vua. Hay tác phẩm “Hịch đánh chuột” rất rõ một sự tiếp thu hình tượng của cổ nhân chỉ kẻ ác, kẻ xấu, kẻ tham tàn hại người, trong bài là chỉ giặc Pháp “mặt mũi xồm xoàm”...

Với những cống hiến rất to lớn cho dân tộc về mặt tư tưởng, Nguyễn Đình Chiểu còn là một tấm gương sáng ngời về ý chí nghị lực phi thường, về đạo lý làm người. Nhà thơ vĩ đại ấy còn thể hiện một tinh thần liên văn hóa hiện đại, mới mẻ rất cần được tìm hiểu, nghiên cứu sâu hơn!

Đến đây chúng ta đủ căn cứ cho thấy luận điệu ác ý của kẻ xấu chẳng qua là một cách xuyên tạc nhằm hạ thấp lòng yêu nước của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu nói riêng và nhân dân Nam bộ nói chung!

N.T.T

-----------

Tài liệu tham khảo chính:

1- Nhiều tác giả - Mấy vấn đề về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu. Nxb Khoa học, Hà Nội 1964.

2- Đinh Gia Khánh (1993) -Văn hóa dân gian Việt Nam trong bối cảnh văn hóa Đông Nam Á. Nxb Khoa học xã hội.

3- PGS.TS Phạm Văn Đức, PGS.TS Đặng Hữu Toàn (đồng chủ biên) (2007) - Triết học trong kỷ nguyên toàn cầu. NXb Khoa học Xã hội.

4- Phan Ngọc, Phạm Đức Dương (1983) – Tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á. Viện Đông Nam Á.

5- J.Brecher (1993). Global visions beyond the new world order. Boston.

6- E.T. Hall. The silent language, New York: Doubleday, 1959.

VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Vòng quay ra con số vòng xoay ra phận đời

Vòng quay ra con số vòng xoay ra phận đời

Tôi nhớ cho đến đầu năm lớp 9, một đêm Dưỡng đạp xe qua nhà tôi cho lại bộ sách rất mới. Dưỡng bảo nghỉ học. Chỉ vậy thôi rồi Dưỡng đi... (TỐNG PHƯỚC BẢO)

Cây thốt nốt quỳ trên núi Tưk-cot

Cây thốt nốt quỳ trên núi Tưk-cot

Tôi được nhiều lần sang Campuchia cùng các đội chuyên trách tìm kiếm, cất bốc, hồi hương hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hi sinh qua các thời kì chiến tranh... (HỒ KIÊN GIANG)

Nguyên mẫu trong hai truyện vừa đầu tay viết cho thiếu nhi của tôi

Nguyên mẫu trong hai truyện vừa đầu tay viết cho thiếu nhi của tôi

Khi viết cuốn Những tia nắng đầu tiên tôi đã hóa thân vào các em nhỏ học sinh lớp 6 của năm học 1969 - 1970 ở Hà Nội... (LÊ PHƯƠNG LIÊN)

Bà Minh của tôi

Bà Minh của tôi

Sống ở Hà Nội, trở thành một công dân có hộ khẩu đến nay đã hơn hai thập kỉ, nhưng chưa bao giờ tôi có cảm giác mình thuộc về Hà Nội... (ĐỖ BÍCH THÚY)