Bài học Bác Hồ dùng khẩu ngữ

Thứ Hai, 16/12/2019 00:54

. NGUYỄN VIỆT HÀ

Xuất phát từ quan niệm quý trọng nhân dân và mình là người phục vụ nhân dân nên trong cách sử dụng ngôn ngữ, đặc biệt là trong các văn bản chính luận, ngôn ngữ Hồ Chí Minh rất giản dị, gần gũi, trong sáng và dễ hiểu. Đó là một thứ ngôn ngữ sống động mang hơi thở của đời sống nhân dân lao động nên xa lạ với ngôn ngữ quan phương hành chính mệnh lệnh.

Góp phần tạo nên đặc sắc này có một nguyên nhân là tác giả của nó rất có ý thức dùng khẩu ngữ. Ngôn ngữ Hồ Chí Minh đậm đặc chất khẩu ngữ. Trong Nói chuyện với đoàn cán bộ tỉnh uỷ Thanh Hóa, Người nói:

“Trong Tỉnh uỷ có bao nhiêu uỷ viên gái? Tại sao không có đồng chí gái nào đi đây cả? Gái làm nhiều nhưng đi gặp Trung ương lại không có ai là gái! Điều đó chứng tỏ các đồng chí còn trọng trai khinh gái. Cần tích cực sửa chữa”[1]. Người không dùng từ Hán Việt “nữ”, “phụ nữ” mà dùng từ “gái” dân giã. Người không dùng “trọng nam khinh nữ” mà dùng “trọng trai khinh gái” đã thuần Việt. Ngôn ngữ của Người là ngôn ngữ của dân, mộc mạc. Ngay ở những cuộc họp quan trọng Bác cũng dùng khẩu ngữ. Ngày 19-6-1963 họp Bộ Chính trị, Người nói : “Phải đề phòng Mỹ -Diệm châu với nhau đánh mình, Mỹ sẽ liều mạng hơn”[2]. Từ “châu” dân giã, vừa rất đời thường vừa dễ hiểu. Anh hùng Nguyễn Thị Chiên kể Bác rất thương chị, khi chị sinh cháu gái, Bác rất vui. Người hỏi thăm chị luôn: “Cái đĩ có ngoan không? Cái đĩ biết đi chưa?”[3].

Về thăm đồng bào Thái Bình, ngôn từ của một vị Chủ tịch Nước là ngôn từ của một lão nông: “Phải giữ gìn sức khoẻ cho phụ nữ để chị em tham gia sản xuất được tốt. Ví dụ: khi phụ nữ có kinh thì hợp tác xã chớ phân công cho họ đi làm ở chỗ ruộng sâu nước rét”[4]. Người không dùng từ “đến tháng”... mà dùng đúng với phong cách khẩu ngữ để tạo ra sự gần gũi, không có khoảng cách giữa cấp trên, cấp dưới.

Khẩu ngữ Bác dùng là lời ăn tiếng nói hàng ngày của dân: “Nói cây súng trường mà bắn máy bay phản lực thì thiên hạ ít người tin lắm. Thế mà ta bắn được. Thế mới giỏi, thế mới cừ chứ!... Mỹ thua thì nó xấu hổ lắm. Nó tức mình lắm. Bởi vì nó đã thua ở Trung Quốc, thua ở Triều Tiên, bây giờ mà thua ở Việt Nam nữa, nó mất mặt, xấu hổ. Vì thế cho đến phút cuối cùng nó cắn, nó cố cắn rồi nó thua nữa”[5]. “Tổng Giôn luôn mồm ba hoa rằng mục đích của Mỹ là "hòa bình", rằng Mỹ là kẻ "bảo vệ Hiệp định Giơnevơ", v.v.. Thật là láo toét!”[6]. “... Nhân dân ta cóc sợ”[7]. Vì sao đại biểu Mỹ cứ một mực cù nhằng, không chịu bàn bạc một cách thiết thực?”[8]. Các động từ “cừ”, “cắn”; các tính từ “cừ”, “mất mặt”, “cù nhằng”; các tiếng mắng mỉa, thề: “láo toét”, “cóc sợ” tươi nguyên sống động của ngôn ngữ nông dân. Trong câu nói sau thì đúng chỉ có ở những đồng bào tiểu thương buôn bán nhỏ: “Các đồng bào có vốn thì nên cùng nhau tổ chức những công nghệ nhỏ. Như thế thì đã khỏi ngồi ăn cụt vốn mà lại giúp được một số đồng bào lao động tản cư”[9].

Rất nhiều những khẩu ngữ : “hả dạ”, “chè chén”, “chén chú chén anh”, “một vốc phân là một cân thóc”, “cắn xé”, “lép bép”, “cúp đuôi”, “chuồn”, “ăn đói”, “miếng vườn”, “lấy trộm”, “mất trộm”, “xúi quẩy”... có mặt trong những bài nói chuyện của Người. Thậm chí tên bài báo cũng đậm chất khẩu ngữ: “ Quân Mỹ chết nhăn răng, tướng Mỹ nhăn răng cười”, “ Lại chuyện chó Mỹ”, “Đốp! Đốp!”... Những so sánh cũng là so sánh của ngôn ngữ quần chúng: “đường trơn như mỡ”[10]. “Coi tính mạng người Đông Dương như cỏ rác”[11]. “Địch như con trâu điên…”. “Các anh là một đàn lừa...”[12]. Lời văn tác giả nhiều khi là sự phát triển từ một thành ngữ: “Sản xuất mà không tiết kiệm thì khác nào gió vào nhà trống”[13]. “Lúc đó những người nhát gan đã nói: Ta đánh nhau với Pháp, khác nào châu chấu đấu với ông voi”[14]. “Nếu hoang phí xa xỉ, thì ắt phải tìm cách xoay tiền. Do đó mà sinh ra hủ bại, nhũng lạm, giả dối. Thậm chí làm chợ đen chợ đỏ, thụt két, buôn lậu…”[15]. Trong mấy câu trên dễ thấy được phát triển từ các thành ngữ: đồng tiền bát gạo, Mồ hôi nước mắt, Chợ đen chợ đỏ. Có trường hợp cả lời văn gần như là sự tập hợp của các thành ngữ: “… chúc các đồng chí đi đường, chân cứng, đá mềm, thuận buồm xuôi gió”[16]. Câu văn có âm hưởng của đời sống nhờ sử dụng hình ảnh và cách nói vần vè của nông dân:

“Từ bây giờ cho đến khi thóc vào bồ, ngô vào cót, luôn luôn phải lãnh đạo chặt chẽ”[17].

Có khi là sự cố ý đưa lời của một nông dân thô mộc vào văn bản: “Khi tự tay bắt một giặc Mỹ lái máy bay nhảy dù xuống đất, một ông cụ dân quân già đã làm một câu thơ:

Bay cậy bay nhiều máy bay

Chúng tao thề đánh chúng mày tan xương”[18].

Chính tính khẩu ngữ này đã góp phần tạo ra một đặc điểm ngôn ngữ Hồ Chí Minh có xu hướng toàn dân, phổ cập, thông thường, ai cũng hiểu, ai cũng nhớ. Đó có thể là lời nói thông thường nhưng mang tính chân lý của một bác nông dân: “Muốn lúa tốt, hoa màu tốt, cần nhiều phân. Phân thì có phân xanh, phân người, phân chuồng. Phân người, nước giải, phân chuồng là quý nhất. Muốn có nhiều phân chuồng, phải nuôi nhiều trâu, bò, lợn”[19]. “Phân bón của ta còn rất ít. Phân người, phân trâu bò, bùn đất, phân xanh, phân rác... còn nhiều nhưng chưa dùng hết. Phải cố gắng làm phân bón nhiều hơn nữa”[20]. Đó có thể là lời phê bình thấm thía: “Giáo dục phải đi đôi với kỷ luật, để chấm dứt những thói xấu như vứt bậy, đái bậy trong các vườn hoa và trên các đường đi”[21].

Có thể khẳng định cái nguồn mạch giàu có, sống động, tươi mới của ngôn ngữ quần chúng đã góp phần chủ yếu để tạo nên một phong cách ngôn ngữ độc đáo Hồ Chí Minh:

“Tiếng Việt của ta rất phong phú, ta phải làm giàu thêm cho tiếng của ta, nhưng không nên vay mượn lu bù để loè thiên hạ.

… Đã tiếng Việt, lại còn ngữ pháp! Sao không gọi là "Mẹo tiếng Việt"? Cái gì tiếng ta đã có và dễ hiểu rồi thì đặt thêm ra làm gì? Mấy chú cải cách chữ Việt không khéo lại làm cho người ta khó hiểu thêm. Có tiếng ta dùng đã quen rồi, các chú lại tự ý sửa đổi. Tại sao lại viết: Quốc hội họp kỳ thứ bốn?

Các chú đi hỏi các cụ mà xem. Xưa nay nhân dân ta vẫn nói thứ tư chứ ai nói thứ bốn bao giờ!”[22].

Trong một cuộc vui văn nghệ, một cô gái xung phong hát bằng tiếng nước ngoài. Bác đề nghị: “Người mình nên hát tiếng mình thì Bác và các chú ở đây mới hiểu, mới hay chứ”. Lại một đồng chí bộ đội xung phong: “Tôi ra đây hát mừng Cụ Hồ sống lâu muôn tuổi. Bác bảo: “Chú hát bài khác đi, bài này cũ lắm rồi”[23]. Mẩu chuyện này cho thấy tuy biết nhiều văn hoá nước ngoài nhưng điều quan tâm nhất của Bác là “tiếng mình”. Nhưng không hề nệ cổ mà Người luôn hướng về cái mới, cái sáng tạo. Người đã hơn một lần nhắc nhở: “Những cái cũ mà vẫn thúc đẩy cuộc sống thì cần phải giữ gìn nó. Còn những cái mới thì cũng phải chọn lọc những cái tốt có ích lợi cho mọi người chứ không phải cứ mới là làm không suy nghĩ”[24]. Ngay từ năm 1925 Người đã chủ trương: “Ngôn ngữ của ta còn nghèo. Khi nói, chúng ta phải vay mượn nhiều từ ngữ nước ngoài, nhất là từ ngữ Trung Quốc. Tôi nghĩ rằng lạm dụng từ ngữ Trung Quốc chỉ làm cho văn thêm khó hiểu, trừ những từ thông dụng mà ai cũng đã biết và trừ những từ mới, như người bônsêvích, chủ nghĩa bônsêvích, tài chính...”[25]. Sau này Người vẫn nhất quán với quan niệm ấy: “... tiếng Việt không thiếu chữ đâu. Tiếng mình thật đầy đủ mà hay. Cho nên, những chữ gì mình có thì nên dùng, nên khai thác vốn của mình. Dùng chữ của mình thì dân hiểu mau. Đừng pha tạp tiếng nước ngoài”[26]. Xuất phát từ quan niệm này mà Người chủ trương tác phẩm văn học phải trong sáng, tránh dùng điển tích để dễ hiểu.

NVH

-------------------------

[1]. Hồ Chí Minh toàn tập, 12 tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2002, Tập 12, tr 419.

 

[2]. Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử. Nxb Chính trị Quốc gia, tập 8, tr 406.

[3] . Trần Đương - Ánh mắt Bác Hồ. Nxb Thanh niên,1999 tr 172.

[4] . Hồ Chí Minh toàn tập, 12 tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2002, Tập 12, tr 194.

[5]. Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd, tập 12, tr 60

[6]. Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd, tập 11, tr 288.

[7]. Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd, tập 11, tr 411.

[8]. Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd, tập 10, tr 541.

[9]. Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd, tập 5, tr 50.

[10]. Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd, tập 5, tr 68.

[11]. Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd, tập 2, tr 363.

[12]. Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd, tập 10, tr 507.

[13]. Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd, tập 10, tr 313.

[14]. Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd, tập 11, tr 443.

[15]. Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd, tập 5, tr 209.

[16]. Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd, tập 5, tr 384.

[17]. Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd, tập 9, tr 215.

[18]. Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd. Tập 12, tr 134.

[19]. Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd. Tập 9, tr 240.

[20]. Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd. Tập 10, tr 151.

[21]. Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd. Tập 10, tr 269.

[22] . Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd.Tập 12, tr 552.

[23]. Nguyễn Sông Lam, Bình Minh (tuyển chọn) - 120 câu chuyện về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nxb Thanh niên, 2010, tr 275, 276.

[24]. Nhiều tác giả - Hồ Chí Minh nhà văn hóa của tương lai. Nxb Thanh Niên, 2009. tr 59.

[25]. Thư trả lời ông H. (Thượng Huyền). Sđd. Tập 2, tr 156.

[26]. Nhiều tác giả - Bác Hồ, Hội văn nghệ Cao Bằng 1990. tr 189.

VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Vòng quay ra con số vòng xoay ra phận đời

Vòng quay ra con số vòng xoay ra phận đời

Tôi nhớ cho đến đầu năm lớp 9, một đêm Dưỡng đạp xe qua nhà tôi cho lại bộ sách rất mới. Dưỡng bảo nghỉ học. Chỉ vậy thôi rồi Dưỡng đi... (TỐNG PHƯỚC BẢO)

Cây thốt nốt quỳ trên núi Tưk-cot

Cây thốt nốt quỳ trên núi Tưk-cot

Tôi được nhiều lần sang Campuchia cùng các đội chuyên trách tìm kiếm, cất bốc, hồi hương hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hi sinh qua các thời kì chiến tranh... (HỒ KIÊN GIANG)

Nguyên mẫu trong hai truyện vừa đầu tay viết cho thiếu nhi của tôi

Nguyên mẫu trong hai truyện vừa đầu tay viết cho thiếu nhi của tôi

Khi viết cuốn Những tia nắng đầu tiên tôi đã hóa thân vào các em nhỏ học sinh lớp 6 của năm học 1969 - 1970 ở Hà Nội... (LÊ PHƯƠNG LIÊN)

Bà Minh của tôi

Bà Minh của tôi

Sống ở Hà Nội, trở thành một công dân có hộ khẩu đến nay đã hơn hai thập kỉ, nhưng chưa bao giờ tôi có cảm giác mình thuộc về Hà Nội... (ĐỖ BÍCH THÚY)