Ghi chép của ngài Appin về con ngựa Hãn Huyết

Thứ Hai, 05/10/2020 05:42

Tại một cuộc gặp gỡ ở trụ sở Hội Nhà văn Trung Quốc tháng 12 năm 2009, tôi có nói, về văn hóa Trung Quốc tôi am hiểu như một người Trung Quốc trung bình; xem phim Tam quốc diễn nghĩa và Thủy hử tôi nghe hiểu được 70% không phải vì biết tiếng Hán mà bởi vì gần như thuộc hai tác phẩm kinh điển này. Tôi thấy các ngài không mấy dịch và đọc văn học Việt Nam và không chắc rằng, các ngài không dịch nó thì nó hay các ngài thiệt. Có lẽ đó cũng là lí do các ngài đề cao Tô tem sói của Khương Nhung - một tác giả không muốn lộ thân thế.

Nhà văn Văn Chinh

Tôi là kẻ hâm mộ nền văn hóa Trung Quốc vì nhiều lẽ, nhưng có một nhẽ thiết cốt là nhờ có họ, tôi mới thấy ông cha Đại Việt mình thật vĩ đại. Khi hai nước cùng ý thức hệ, họ càng cải cách mở cửa tôi càng thích vì đó cũng là mô hình đất nước mình học hỏi để Đổi mới; cố nhiên là sau một nhịp. Nhưng các hành vi xâm lăng, xâm lấn năm 1979, 1988 rồi năm 2014 khi họ đặt giàn khoan 981 HD trong lãnh hải của Việt Nam thì kí ức lịch sử hàng ngàn năm bừng thức trong tôi mạnh mẽ; trở thành nguồn năng lượng tâm linh giúp tôi đọc hiểu kĩ hơn về văn hóa Hán. Và nhận ra thơ Đường lừng lẫy thế nhưng đó gồm toàn bộ oán than về vua chúa, về thân phận thấp thua, về chiến chinh và vịnh cảnh chứ không có hơn một bài thơ tình yêu nam nữ, ngoài một bài thơ tình của Lý Hạ. Về văn xuôi cũng thế, rất hiếm có tiểu thuyết về tình yêu nam nữ, ngoài Hồng Lâu Mộng thì phần chính của nó lại là cảm thán về quý tộc sa sút còn Kim Bình Mai thì hiển nhiên là một cuốn dâm thư. Ngược lại với tình yêu, người Hán lại có sách dạy hưởng thụ tình dục, rất nhiều sách.

Cho đến cuốn tiểu thuyết Tô tem sói thì tôi nhận rõ một điều, Khương Nhung muốn giấu mặt kích động bản năng sói đã trở thành tô tem (biểu tượng) của tính cách dân tộc họ. Tôi coi đây là cái viết bất nhân, kích động chủ nghĩa dân tộc và chiến tranh. Tôi nẩy ra ý cần phải viết một truyện ngắn đề tặng tác giả Tô tem sói.

Có hai nguyên cớ để truyện ngắn Ghi chép của ngài Appin về con ngựa Hãn Huyết có hình hài như nó là:

1. Năm ấy, lúc làm việc ở website vanvn.net, tôi có dự một cuộc gặp với các nhà văn Mông Cổ. Họ tỏ ra thân thiện và tỏ ý kính trọng Việt Nam. Một người nói: Trong cuộc chống Mĩ cứu nước vĩ đại của Việt Nam, Mông Cổ tự hào là nước viện trợ cho Việt Nam cao nhất thế giới tính theo đầu người. Trong số hàng hóa viện trợ, có 100 con ngựa Hãn Huyết - một loài ngựa khi ra mồ hôi có màu đỏ như huyết. Lạ là trong số 100 con ngựa ấy, có một con không biết vì sao từ Việt Nam bỏ trốn về lại được thảo nguyên Mông Cổ?

2. Đó cũng là dịp tôi đọc truyện ngắn Tobermory của Saki (Hector Hugh Munro) trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Vậy là tôi mượn nhân vật của Saki – là con mèo biết nghe tiếng người; để tạo nên nhân vật ngài Appin nghe và nói chuyện được với con ngựa để triển khai quá trình trốn chạy khỏi chiến chinh, khỏi đấu tố Cách mạng Văn hóa và thoát khỏi chết đói sau hàng nghìn dặm đường cách trở của con ngựa Hãn Huyết bỏ trốn ấy.

Tôi viết rất nhanh, chỉ sau một đêm và gần như không sửa chữa gì. Đây là một trong khoảng vài mươi truyện ngắn mà tôi ưng ý hơn cả trong đời viết văn của mình.

Nhà văn VĂN CHINH

 

Gửi tác giả “Tô tem sói”

Appin là nhân vật trong truyện ngắn Tobermory của Saki (Hector Hugh Munro) trước khi là nhà văn. Vì cha ngài đã chết ở Pháp, trong thế chiến thứ nhất, năm 1916. Ngài thấy mình có sứ mệnh tiếp bước cha, bằng khả năng nói chuyện được với loài vật.

Năm 1966 Appin sang Mông Cổ. Trước khi lên đường, ngài đến nhà thờ cầu nguyện, xong thì ngước lên vòm mái mà nói:

- Cha ơi, chiến tranh đã giết cha lúc cha sung mãn nhất, con không có anh trên em dưới, một mình con cô độc trên cõi đời này. Những nước hay gây chiến thì con đã đến Đức, đến Pháp, Tây Ban Nha và Hoa Kỳ. Bây giờ con sang Mông Cổ, rồi sang Trung Quốc. Con muốn xem sau các cuộc chiến thì hoàng gia được cái gì, thường dân được cái gì trên những cái chết của các chiến binh. Cha ở trên Thiên đàng, xin hãy cầu Chúa phù hộ cho con được bằng an. A men.

Sau đây là ghi chép của Appin về chuyến đi Mông Cổ năm ấy.

Sữa ngựa thật khó uống, gây và hoi, phải đọc kinh thánh rồi phải huy động hết sức bình sinh của phép lịch sự Anh, chứ không thì tôi nôn ngay từ hớp sữa đầu. Nhưng thật lạ là chỉ sau ngày thứ ba, tôi thấy mình khỏe khoắn, ngắm các cô gái ngồn ngộn trắng đã không còn sợ. Đến ngày thứ năm thì tôi dậy sớm cùng cô Khaallose, con gái của chủ nhà đi vắt sữa ngựa. Những con ngựa Hãn Huyết to lớn khác thường, vừa ra khỏi trại là nhất loạt hí vang, hai chân trước với lên trời theo chiều thẳng đứng, trong khi loa truyền thanh đang hát Đông phương hồng, rất nghi thức. Uống sữa ngựa đến ngày thứ bảy thì tôi đã có hứng thú cưỡi lên lưng con 054 đầu đàn, phi quanh thảo nguyên, lên phố huyện mua dao cạo và gửi bức điện tín về nhà; từ khoảng mặt trời mọc đến bữa ăn trưa mới quay trở về mà mặt không biến sắc. Khaallose nói:

- Anh khỏe thật, và đàn bà Anh hẳn là giống cái phi thường?

- Có lẽ nhờ sữa ngựa, chính anh cũng thấy lạ.

Khaallose nói, ở Đại học Moscow, cô được dạy rằng nhờ một loại cỏ chỉ đặc biệt có trên thảo nguyên Mông Cổ, nên ngựa Hãn Huyết có sức mạnh phi thường, sữa của chúng có thể chữa bệnh suy dinh dưỡng và nhiều bệnh khác. Anh ngửi xem, cứ như lều nhà ai ở xa đang sắc thuốc của người Hán. Nhưng ông giáo sư dạy thế đã bị kỉ luật, vì xuyên tạc quan điểm nông học Macxit. Và người ta vẫn mang ngựa Hãn Huyết sang nuôi ở Liên Xô. Lúc đầu nhập về, họ nhập theo cỏ, cả cỏ ăn lẫn cỏ giống, nhưng cỏ không sống được, ngựa thì gầy guộc, con của chúng đẻ với ngựa cái bản địa quả có to hơn, nhưng chỉ là to xác, mồ hôi của nó không còn đỏ như huyết thành ra một thứ ngựa vớ vẩn rất dễ ốm và chết vì những chứng bệnh thường gặp. Ngựa chết thì lại nhập, năm nào cũng nhập.

Minh họa: Bùi Trọng Dư.

Đến ngày thứ tám thì tôi không uống sữa ngựa nữa, sớm ngày thứ chín ở Mông Cổ, con ngựa đầu đàn bỗng hỏi tôi:

- Vì sao mày không uống sữa nữa? Có phải mày có cảm giác cần phải bạo dâm mới đạt đến khoái cảm?

Tôi giật nẩy mình:

- Sao mày biết? Ai nói cho mày biết?

- Hôm nọ tao chở mày đi chơi, ở cửa hàng mậu dịch, tao thấy ánh mắt mày muốn giết chết tất cả những người xung quanh để lột áo quần của cô mậu dịch viên. Vả lại, cái của quý của mày cứ thúc vào lưng tao suốt dọc đường về, nó dữ tợn và lại không biết kiềm chế.

- Lạy Chúa, tao thật đáng xấu hổ.

Con 054 cười khì khì, cười bắn cả nước bọt vào mũi tôi. Nhưng một lát sau, nó bỗng chùng giọng, rồi nói:

- Cánh đàn ông mình, thế cả. Nhưng không chỉ có mày, tao, tao cũng vừa làm một việc đáng xấu hổ.

- Chuyện gì vậy. Bọn mày được tự do tuyệt đối, không có khế ước xã hội, không có màn luân lí đạo đức. Mà mày lại là con đầu đàn, muốn gì mà chả được?

- Mày nhầm. Kiến có quy chế kiến, voi có luật của voi.

- Nhưng chuyện gì làm mày mặc cảm? Có phải sống với người lâu đời, chúng mày cũng tập nhiễm thói ủy mị?

- Tao đã làm cái việc mà nếu là người thì bị quy kết thành tội đào ngũ. Tao đã bỏ trốn từ đất Việt Nam.

- Chuyện thú vị đấy, có thể viết thành truyện đấy. Nhưng mày bịa quá, đây đến Việt Nam xa cả chục ngàn dặm, ai người ta tin được?

- Tao có ăn mày lòng tin đâu? Tin hay không tin, tùy mày.

- Nhưng vì sao mày lại đến Việt Nam?

- Nước này viện trợ Việt Nam đánh Mĩ, năm mươi đực năm mươi cái để vừa lai giống vừa duy trì giống thuần, ngựa xứ ấy bé như con la còi.

- Lạy Chúa. Nước có ba triệu người nghèo mà còn viện trợ. Mĩ hẳn sẽ là nước thứ ba thua ở Việt Nam.

- Mày hồ đồ quá, loài người rất hay hồ đồ. Tính theo đầu người, Mông Cổ viện trợ cho Việt Nam cao nhất thế giới, nghe chửa?

- Thôi được, tao nghe rồi. Tao ghét câu mệnh lệnh thức như ghét chửi thề, làm ơn bớt cho. Bây giờ xin hỏi, vì sao đến nước đang làm kinh ngạc thế giới là dám đánh nhau với Mĩ mà lại còn bỏ trốn?

- Trước hết, mày hãy hứa với tao không nói với ai rằng, ông tổ lâu đời của tao từng phục vụ trong quân, chính khan Hốt Tất Liệt đã cưỡi Tổ sang thôn tính châu Âu. Thời nay người ta ghét giống nòi quý tộc, nghe chửa?

- Tao hứa, nhưng tao phải hỏi cô Khaallose xem có đúng không hay là mày khoác lác?

- Mời!

Tôi chạy lại chỗ Khaallose, này em, có phải con 054 từng được đem viện trợ cho Việt Nam rồi bỏ trốn về, đúng không? Đúng. Chuyện lan sang cả Anh? Tôi tảng lờ, giấu bặt chuyện mình biết tiếng mọi giống vật. Vậy thì anh hiểu rồi, nó đã được đánh số tai, 054; chứ cả đàn ngựa nhà em có con nào có số tai đâu. Số tai để làm gì? Số tai làm gì ư? Số được lập cho cả một trăm con ngựa, lấy ở một trăm đàn khác nhau, sẽ giúp người chăn nuôi lai tạo giống ở xa nhau. Ví như con 054 sẽ được phối với 053 và 055 để tránh cận huyết. Con 054 này trở thành đầu đàn ngay từ năm hai tuổi, nó được chọn, nhà em được tiền, còn được khen thưởng, rất vinh dự nhưng cha em cứ tiếc mãi. Hôm chia tay chủ vật đều khóc. Vậy rồi đúng ba tháng sau, nó đột ngột trở về. Về trong đêm, khe khẽ cọ vào vải lều rồi rên ư ử. Cha em giật mình thức giấc, bảo với mẹ con em là con đầu đàn đã về. Em chạy ra xem, nó gần như ngã vào em. Chỉ còn da bọc xương, hai hóp cỏ lõm sâu tội lắm. Em lấy sữa cho nó uống, lấy lúa mạch cho nó ăn, lại phải nhờ cha dùng kìm tháo móng sắt, hàng chục mảnh đá dăm sắc rơi lịch bịch, bộ móng xây xước rồi thuốc thang cả tuần nó mới lấy lại sức. Cha em cưỡi ngựa lên Phòng Chăn nuôi huyện, Phòng Chăn nuôi viết giấy sang Huyện ủy, Huyện ủy viết giấy lên Sở Ngoại vụ, Sở Ngoại vụ cười giễu: Chúng tôi đã điện hỏi Bộ, Bộ bảo con ngựa 054 nhà ông đã chết trên đường sang Việt Nam. Trên đã nói thì không sai bao giờ. Bây giờ nếu nhận lại con 054, thì hóa ra Bộ sai. Mà Sở chúng tôi đã cấp giấy khen nhà ông chăn nuôi tốt lại cũng sai nốt. Cha lại cưỡi ngựa về, sau khi trả lại tiền bán ngựa mà không cần phiếu thu.

Trong khi chúng tôi trò chuyện, con 054 làm như không nghe gì, cứ miệt mài gặm cỏ, cái đuôi thỉnh thoảng vẫy vẫy, cái mõm giật giật cùng lúc với cái bờm đài các vung vẩy, trông rất có giáo dục. Tôi nhận xét nó với Khaalose, cô ấy bảo, nó còn đáng yêu hơn anh, khiến tôi nổi hứng, bế cô ấy nhảy lên lưng ngựa, tất nhiên là lưng con 054, rồi phi như trong cuộc chiến thành Troy, bờm con 054 tung lên trộn vào tóc Khaalose bay tung, thành một tấm thảm cuốn lấy cổ tôi, đầu tóc tôi, khiến tôi ngột thở, phải lấy oxy từ cái gáy trắng nõn của cô.

Một lúc lâu Khaallose mới quay lại nói, khó thở hả, chết chưa, ai bảo chê sữa ngựa? Vừa nói đến đấy, cô đã tung mình sang lưng một con ngựa khác đang chạy gần đó.

Tôi ghìm cương, hỏi 054:

- Tao nghe nói người Mông Cổ ăn trên lưng ngựa, ngủ trên lưng ngựa, cả làm tình trên lưng ngựa, có phải không?

- Đó là bí mật quốc thể, không được tiết lộ khiến địch lợi dụng.

- Mày trở về từ Việt Nam như thế nào liệu có là bí mật quốc gia không?

- Cái đó là do trách nhiệm cá nhân của tao, không ảnh hưởng gì đến tình hữu nghị hai nước. Nhưng cấm được bép xép, nghe chửa?

- OK. Kể đi.

- Bọn tao đi tầu hỏa từ Ulanbato sang Bắc Kinh rồi sang Việt Nam. Đó là mùa hè, chưa đến Việt Nam trời đã nóng khủng khiếp, lại khó thở vì hơi nước mù mịt. Tao đứng trong khoang tầu, dựa vào thành tầu, gặm rách một miếng bạt rồi vươn đầu ra ngoài cố hớp từng miếng khí để thở. Gió làm tao thiu thiu, tao mơ thấy Tổ về, bảo sớm mai thì đến ga Bằng Tường, ở đấy họ sẽ làm kiểm định động vật, hãy giả ốm, cứ ho khục khặc là được. Sang đến giữa cầu Hữu Nghị thì ngừng thở, nằm vật xuống sàn. Thấy cháu chết, người ta sẽ đưa đến lò mổ của mậu dịch. Cháu cứ nằm yên, chờ đến tối thì vùng chạy. Cứ thấy con đom đóm nào to sáng khác thường bay hướng nào thì chạy theo hướng ấy. Tổ vừa nói đến đấy thì tầu dừng, tao giật mình vì tiếng loa phát thanh. Tầu Hữu Nghị Xa số 1 đang vào ga Bằng Tường, điểm cuối cùng trên đất Trung Hoa vĩ đại. Tầu sẽ đỗ tại ga lâu hơn thường lệ, vì phải chờ kiểm định động vật, vâng, Hữu Nghị Xa có chuyên chở đàn ngựa do Mông Cổ viện trợ Việt Nam anh em. Nhà ga xin quý khách vui lòng chờ.

Tao thấy một bác sĩ thú y đến bên, áp ống nghe vào mũi, vào ngực rồi nói to: Con không năm tư bị viêm phổi cấp, hãy tiêm cho nó ba triệu steptomicil, một triệu rưỡi penicillin, tiêm bắp. Là bệnh không lây nên vẫn cho nhập cảnh. Ngay sau đó lại nghe loa phát thanh: Đoàn tầu Hữu Nghị Xa đang rời ga Bằng Tường, nhà ga xin kính chúc quý khách thượng lộ bình an trên đất nước Việt Nam tuyến đầu đánh Mĩ. Chỉ một lúc sau thì tao ngửi thấy mùi nước sông, bèn cố hết sức thở sâu rồi ngừng thở. Vì sao ngừng thở mà vẫn sống ư? Hỏi gì hỏi ngớ ngẩn thế, Hầu Vương tu mới năm trăm năm đã đắc đạo bẩy mươi hai phép thần thông biến hóa, Tổ của tao tu luyện những bẩy trăm năm, chả nhẽ không được phép thuật nào?

Khaallose vừa phi nước kiệu vừa hỏi với sang, anh lẩm bẩm cái gì vậy, hở điệp viên Appin? Anh không giấu con rệp nào dưới bờm ngựa đấy chứ? Tôi vội nói với 054, tao phải làm bổn phận của một gã đàn ông đã nhé. Rồi nhảy xuống, nằm xoài lên đám cỏ mềm, thơm mùi thuốc Hán. Quả nhiên Khaallose trúng kế giả đau. Tôi thì thầm vào tai cô, đất nước của em chất chứa nhiều điều bí mật, mà bí mật nhất là em. Nhưng chả dại gì anh bán thông tin cho cả Nga lẫn Mĩ.

Minh họa: Bùi Trọng Dư.

Sáng hôm sau Khaallose phải lên huyện để mua thuốc dược bổ sung, chuẩn bị cho mùa đông, hoa thạch thảo đang rộ. Tôi và 054 được tự do. Nhưng trước khi kể tiếp chuyện, 054 nói, cô chủ lên huyện vì việc khác, cô ấy phải giải trình về vụ để cho khách tư bản nước ngoài ở lâu trong lều bạt. Tôi giật mình, chợt hiểu vì sao sáng qua cô ấy lại gọi tôi là gián điệp. Thấy tôi hết sức lo lắng, con 054 vội an ủi, chả có chuyện gì đâu, nhân tình cũ của cô chủ cùng học ở Liên Xô, hiện làm ở Phòng Chăn nuôi huyện, đã vợ con đề huề rồi nhưng vẫn cứ ghen, thối. Có một bí mật ở cấp hạt, tao biếu không mày là, ở đây hễ muốn hại ai, thì bảo họ quan hệ bất minh với người nước ngoài, phe tư bản càng nặng tội. Nhưng cô chủ Khaallose rất bản lĩnh, đã lấy giấy tạm trú cho mày từ trước, trong giấy ghi rõ nhà văn Anh, nhưng thân Cộng, vô tư đi. Tôi bảo với 054, loài người bọn tao, về mặt xã hội học không văn minh như loài mày. Nhưng ghét nhất là cái cách che giấu tính xấu của mình nhưng lại nhân danh lợi ích chung.

Trong lò mổ, khi choàng mở mắt đã thấy con đom đóm to khác thường bay đến, lượn trước mắt một vòng rồi bay đi. Khó nhất là vượt sông Kỳ Cùng, tao có được dạy bơi bao giờ. Bờ bên kia là một mom song, thấy cỏ tốt um tao tranh thủ gặm mấy miếng cho đỡ đói thì Tổ vội túm mõm lôi ra, nói: Không được ăn cỏ bờ sông, bờ ruộng, cháu sẽ bị tiêu chảy và chết vì kiệt sức. Tốt nhất là cứ men đường sắt mà đi, đói ăn khát uống; tục ngữ nói, theo mùi nước đái ta, ắt về được quê nhà. Đi giữa các thanh gỗ thì êm nhưng nhỡ bước, cứ như kẻ tù bị xích chân, rất khó chịu. Sau tao nghĩ chạy thì không bị lỡ nhịp chân, tao chạy. Hôm ấy, đang chạy về gần đến ga Nam Ninh thì chợt thấy cái xe goòng sầm sập trước mặt, tao phải quăng mình lượn vát theo hình quả chuối, tránh qua xe goòng rồi mới quăng trở lại tâm đường, suýt bị tan xác. Gian truân lắm.

Nhưng không phải chỗ nào ven đường sắt cũng có cỏ, đoạn gần ga Vũ Hán nó chạy qua những làng mạc và rất nhiều thị trấn. Người và gia súc đói, người ta tranh nhau cắt cỏ, dưới khẩu hiệu “Ái thiết lộ nhi hương lộ” trẻ con mang cả quang liềm đi học, học về là chúng sà vào đường sắt cắt cỏ. Ngọn non thì nấu canh, rau má xay trộn với bột mì làm màn thầu; thân già hay ngọn non bị ám khói than đầu máy phả xuống thì nộp cho nông trang nuôi bò, để thực hiện chiến lược “Đại nhảy vọt”. Vậy là một mà hai. Đường sắt sạch như lau như li, đói rã họng.

Tháng năm nóng như lửa, đói thì chớ còn mệt mỏi, không chạy được. Hôm ấy đang lững thững đi, chợt ngửi thấy mùi lúa mạch, tao liền tìm đến và chẳng nghĩ gần xa gì, sà xuống mảnh ruộng ngắt lúa mà nhai. Liền bị một đám người gậy gộc thừng chão bủa vây, tóm sống điệu ngay về nhà kho. Dân làng kéo đến, thi nhau khen tao, mỗi người một cách: Ngựa to cao phi thường, ngọt nước phải biết! Ngựa nhà ai mà đẹp thế nhỉ? Không của nhà ai đâu, con này có số tai, ắt là của quốc doanh. Của quốc doanh ắt là của dân, sở hữu toàn dân mà, thịt. Đúng đúng, từ tết Bính Ngọ đến giờ chưa biết vị thịt chua hay cay, phải nếm mới được. May nhờ có lệ họp bàn, chứ cứ như mấy người thèm thịt tao đã bỏ xác ở cái làng vô danh gần Vũ Hán hồi tháng năm. Theo quy định, họ phải chờ chủ tịch nông trang đang họp ở trấn; chủ tịch nông trang về, lại phải họp cấp ủy, mà họp cấp ủy thì phải do bí thư triệu tập; may quá, bí thư đi tập huấn thành lập Hồng vệ binh làm cách mạng văn hóa, mai mới về. Tao bị trói chân vào bốn cột nhà kho, đành chờ tối hỏi Tổ cách thoát thân vậy, bèn ngủ. Bọn tao cũng như người, hễ ăn no là buồn ngủ.

Rất may, đó là buổi trưa, Tổ cũng ngủ. À, tao chưa kể với mày, Tổ đã đầu thai làm người, sau khi đã làm hổ, làm gà, làm rồng và hiện đang làm người.

- Không đúng, sau khi chết, hồn lên thiên đàng hay sa địa ngục. Như Tổ mày, dù là quý tộc nhưng giỏi lắm thì đang hầu hạ Chúa trên kia, sao có thể thành người?

- Mày đừng có mang lí luận tư bản mà dọa đời sống dân chủ nhé. Tây chết mới lên Thiên đàng, Đông chết thì luân hồi, sau mười hai kiếp thì trở về bản kiếp, nghe chửa?

- Thôi bảo lưu bảo lưu. Rồi, Tổ mày hiện đang là người, hiện đang ngủ trưa ở đâu đó, rồi sao nữa?

- Không phải ở đâu đó, ở Trung Quốc, khu tự trị Tây Tạng và làm một chức quan to hẳn hoi. Chức gì thì mày không có quyền được biết. Tổ đi vào giấc mơ của tao, bảo, bần tiện bất năng di, nay mày đói ăn cắp làm nhục dòng tộc. Lần này ta tha. Nếu còn tái diễn thì thà tuyệt dòng chứ ta không tha nữa. Vâng, lậy Tổ cứu cháu. Cháu hứa chẳng những làm sinh sôi đông đàn dài lũ nhà ta, mà còn tu tập thành chính nhân quân tử, không làm Tổ thẹn với đời. Thế rồi đêm ấy đom đóm bay ra, tao thoát khỏi lũ người đã quên vị thịt.

Nhưng chính nhân quân tử là một nghề khó học và rất nguy hiểm. Ở ga Trịnh Châu tao bị đói, đói lắm tuy có đỡ hơn ở Vũ Hán. Khi tao đến thành phố Trịnh Châu thì đã sang tháng sáu, tiết hạ chí nóng kinh khủng nhưng nhờ có mưa nên cỏ non mọc nhu nhú. Vả lại, phong trào “Ái thiết lộ nhi ái hương lộ” đã chuyển sang trận cuồng phong Cách mạng văn hóa, trẻ con không cắt cỏ ven đường sắt nữa, mà đi đánh trống cà rùng tại các cuộc phê đấu, nhân thể bồi dưỡng truyền thống cho thế hệ hậu bị. Cũng may là đồng lúa gần Trịnh Châu đã gặt, lại gặp mưa, những hạt thóc rụng vội mọc lên các nhánh lúa ở chân gốc rạ để kịp nuôi tao. Tao tin rằng Tổ đã hô phong hoán vũ để cứu tao khỏi chết đói.

Tuy vậy, mưa chả ích gì với đường nhựa Bắc Kinh lúc nào cũng đỏ rực cờ hoa, đỏ rực báo chữ to phê đấu. Tao gần như lả người, bước những bước dặt dẹo trên hè phố. Những vết thương do đá dăm đường sắt máu tụ thành mủ, nhức nhối. Tao liều dừng trước cửa một hiệu thuốc thú y, lấy chân gại gại vào gạch vỉa hè. Đó là một bác sĩ tốt, nói chung, dân Bắc Kinh tốt, không ai có ý định bắt tao xả thịt, cũng không có ý định làm của riêng. Mọi người đã xả hết cái tư hữu qua những câu thét đấu đến khản giọng. Ông bác sĩ thú y gắp những mảnh đá dăm ra khỏi kẽ chân tao, dùng cồn rửa kĩ rồi rắc thuốc bột. Ông gọi tao là Xích Thố, hỏi tao rằng đi đâu, đường về Kinh Châu nơi Quan Vũ chủ mày xa lắm, mày về đó làm sao? Tao ứa nước mắt cảm động, nhưng không giả nhời, cứ ngúc ngắc đầu rồi gục vào vai ông ta.

Ông ta gọi cho một hợp tác xã vận tải. Vừa may ở đó có cụ ngựa già mới chết, họ nhất trí để hợp tác sử dụng phục vụ khách tham quan Cố Cung, cho tới khi đơn vị chủ quản tao tìm đến hay không tìm đến mới ra quyết định xử lí cuối cùng. Như thế, tao được ăn cỏ, ăn lúa mạch và còn được ngâm chân vào nước gừng nóng. Sau hơn một tuần, bộ chân khỏi hẳn, thì bị đóng móng sắt, cái ấy mới khốn nạn, đệ nhất khốn nạn.

- Những ngày ở cạnh Cố Cung hẳn phải là mãn nhãn lắm, tao nghe nói đó là một cụm kiến trúc trác tuyệt, đệ nhất thiên hạ.

- Mày ngớ ngẩn lắm. Đã là thân trâu ngựa, nếu không được sống trên thảo nguyên này, với những nàng ngựa cái non tơ thì, ở bất cứ đâu chẳng là thân trâu ngựa? Ngày thứ mười tao ở Bắc Kinh, chân vẫn còn đau họ đã khoác ách vào cổ bắt kéo xe. Chỉ đến cổng Cố Cung thì xe dừng, cái cổng sắt lúc nào cũng đóng im ỉm, khóa chặt; bản lề và khóa đều rỉ sét hết cả. Chờ khách xuống đi bộ vào trong, lão đánh xe quay lại bến xe, bến tàu đón khách khác. Không được vào trong đã đành là khổ, nghe Tổ tao nói đây chính là kinh đô do khan Hốt Tất Liệt cho xây cất, ngay trên đường đôi khi muốn ngó nghiêng, lão xà ích đã vung roi tía lia vào mông vào kheo chân tao. Đánh thì nhằm nhò gì, ghét nhất là lão làm ra vẻ ngựa nghẽo thì biết đẹp xấu gì mà nghó nghiêng, thật là cái ác bao giờ cũng đi liền với cái ngu. Mỗi đêm về đứng trong tàu, tao lại gào Tổ mà oán trách. Tổ ơi Tổ, cháu biết Tổ sợ cháu sang Việt Nam thì bị tên bay đạn lạc, hoặc rất dễ chết vì tiêu chảy, bị viêm nhiệt. Nhưng dẫu vậy, trước khi chết cháu còn được làm con đực cho ra một chính nhân quân tử. Thế mà Tổ bắt cháu trốn về rồi bỏ mặc cho lão già vừa ngu vừa ác hành hạ cháu, Tổ ơi là Tổ. Đêm nay mà Tổ không về đưa cháu thoát khỏi tù đầy, cháu tố Tổ là cán bộ cốp mà không ủng hộ Việt Nam anh em đánh Mĩ, Tổ đừng trách cháu là bất nhân bất hiếu. Nhưng bặt vô âm tín.

Cho đến ngày thứ hai mươi bẩy ở Bắc Kinh tao mới gặp Tổ. Đó là ngày lão xà ích đưa khách tham quan Vạn Lý trường thành, ra khỏi Bắc Kinh chừng bốn năm chục dặm thì gặp khu rừng đẹp tuyệt vời, đang phi nước kiệu thì Tổ hiện thành một ông áo bốn túi, hông đeo súng lục đứng vẫy bên đường. Xe chật à? Chật thì để tôi cưỡi ngựa, ngày theo Mao Chủ tịch lên Diên An, tôi làm giám mã cho Chủ tịch mãi. Thôi thôi, mời lão bá lên đi. Đành dùng cái bao tải rách này mà làm yên tạm. Người nhảy lên lưng tao mà như không có gì vừa chất lên, tao biết ngay là Tổ. Tao hu hu khóc, cứu cháu với, Tổ ơi. Nín đi, nghe cho kĩ này. Đến trạm dừng chân, ta sẽ mượn cớ chăm sóc cháu rồi tháo ách. Cháu phải chạy một mạch vào rừng, đến chân tường thành thì có hai lối, tùy cháu chọn. Vượt thành sang bên kia, cháu bị khó là phải vượt sa mạc Gô Bi, và sang đấy thì vẫn còn nguy cơ phải nhập đàn không phải là cố hương. Đó là con đường ngày xưa Tổ đã đi để về lại thảo nguyên. Còn cứ men tường thành mà đi, trong khoảng hai chục dặm rất nguy hiểm, vì có các vọng hỏa đài, khó tránh bị bắt và xung vào quân dịch. Nhưng đom đóm sẽ bay trước để thăm dò, nên cứ chờ đêm hãy đi. Ta sẽ đưa cháu đến đường sắt.

Nước mắt vẫn chưa thôi chảy, tao nói: Tổ dạy cháu phải thành chính nhân quân tử, cháu nghe theo mới bị tù đầy, mà Tổ bỏ mặc cháu là cớ làm sao? Tổ cười cười. Ta có nghe cháu dọa tố, nhưng ta biết dòng giống của ta chứ. Thôi nào, ngoan nào. Cháu không biết thôi, đã làm một sinh linh dưới gầm giời này, ai cũng có một nỗi sợ. Với ta thì quãng đời tòng chinh hơn một tháng ở Đại Việt còn hãi đến bây giờ. Ôi cái ngày Thái tử Thoát Hoan xin vua cha ban cho “Bách Chiến thắng đại phu” là ta đây, nói rằng để lấy cái khước của phụ hoàng là một ngày mạt vận của đời ta. Ôi cái xứ sở đêm thì viêm nhiệt muỗi vắt, ngày thì tiếng hò hét tiếng gươm khua tiếng người giãy chết rồi bị thương gào khóc váng cả trời xanh. Cái xứ sở gì mà kì lạ, cỏ xanh mướt như rau mà ăn vào liền té re cả lượt, vài ngày thì chết. Ta phụng sự chủ soái, cả trăm người Hồ Nam xe cỏ, xe yến mạch, đại mạch từ cố hương sang hầu ta, chứ nếu không thì thành ma ở xứ ấy rồi, lấy đâu ra cháu hôm nay? Nhưng cháu tính, hăm nhăm vạn lính, kèm hăm nhăm vạn phu dịch ta không biết là chết trận bao nhiêu, chứ năm vạn ngựa chiến đã không mấy kẻ sống sót mà về đâu cháu ạ. Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi, cổ nhân nói vậy, cháu phải nhớ kĩ mới được.

Nhưng, cái ám ảnh ta để trở thành tiềm thức lại ở chỗ khác. Khi bại trận, Thái tử từ lưng tao nhảy sang ống đồng mà trốn, không hề nói nửa nhời bảo ai cưỡi ta theo. Để mặc ta bơ vơ giữa sa trường còn sặc mùi máu và xác rữa, lương thảo đã bị đốt sạch sành sanh không còn dẫu chỉ một nhúm cỏ, bất nhân chưa? Tổ nói thế cháu thấy sai quan điểm chiến tranh. Đó, là cuộc chiến tranh xâm lược, còn hiện nay, Việt Nam đang chống xâm lược, chúng ta phải có nghĩa vụ quốc tế là giúp bạn. Tổ vỗ vỗ vào bờm tao, khen đúng lập trường, cười ha hả làm ta cũng bật lên một tiếng hí dài, vang vọng cả trường thành. Tổ nói khi vẫn cười, ta thân với một đồng chí bên nhà, nếu cháu muốn giúp Việt Nam, ta sẽ nói một câu, người ta sẽ bán cháu lấy tiền mua lương khô Trung Quốc viện trợ? Thấy Tổ vui, tao lại trách. Nhưng ở Bắc Kinh có chiến tranh đâu, sao cháu kêu cầu mãi mà Tổ vẫn bặt vô âm tín? Tổ giật mình, túm lấy bờm tao lắc nhẹ. Khẽ chứ, suốt đêm ngày đỏ rực cờ hoa, loa phát thanh oang oang phê đấu, khí thế hừng hực như thế còn bằng mấy chiến tranh ấy chứ. Từ ngày bại trận ở Việt Nam, cái ngày đang ngút trời khí thế trận mạc, rồi đột ngột im ắng bơ vơ, ta nhiễm nỗi sợ khí thế. Giờ ta dặn cháu, hễ thấy trong người rậm rật, thì hãy tạm ngừng ăn nếu trong đàn không có ả nào động dục, chớ để rậm rực lâu ngày, tất sinh tính ác. Đó là bài học ta học được ở các nhà sư Tây Tạng, những người ta có phận sự phải phê đấu để bảo vệ đường lối duy vật.

Đêm ấy, tức là đêm 31/10/1966 vì đó là ngày tôi chấm hết thiên kí sự này, lần đầu tôi biết trong việc ngủ với đàn bà có tinh thần nhân đạo, nên sướng hơn mọi bận. Kể cả trừ đi phần tương tác là người nước ngoài, vẫn còn sướng hơn.

V.C

VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Cây thốt nốt quỳ trên núi Tưk-cot

Cây thốt nốt quỳ trên núi Tưk-cot

Tôi được nhiều lần sang Campuchia cùng các đội chuyên trách tìm kiếm, cất bốc, hồi hương hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hi sinh qua các thời kì chiến tranh... (HỒ KIÊN GIANG)

Nguyên mẫu trong hai truyện vừa đầu tay viết cho thiếu nhi của tôi

Nguyên mẫu trong hai truyện vừa đầu tay viết cho thiếu nhi của tôi

Khi viết cuốn Những tia nắng đầu tiên tôi đã hóa thân vào các em nhỏ học sinh lớp 6 của năm học 1969 - 1970 ở Hà Nội... (LÊ PHƯƠNG LIÊN)

Bà Minh của tôi

Bà Minh của tôi

Sống ở Hà Nội, trở thành một công dân có hộ khẩu đến nay đã hơn hai thập kỉ, nhưng chưa bao giờ tôi có cảm giác mình thuộc về Hà Nội... (ĐỖ BÍCH THÚY)

Đồng đội là nguyên mẫu trong các sáng tác của tôi

Đồng đội là nguyên mẫu trong các sáng tác của tôi

Có nhân vật chỉ là dáng dấp của nguyên mẫu, có nhân vật là nguyên mẫu đã sống và chiến đấu cùng tôi, suốt những năm tháng ở rừng... (VŨ NGỌC THƯ)