Diễn từ Nobel của Annie Ernaux

Thứ Hai, 19/12/2022 00:29

“Phải bắt đầu từ đâu đây? - Tôi đã tự hỏi bản thân đến hàng chục lần khi nhìn chằm chằm vào tờ giấy trắng rồi sẽ trở thành bài diễn từ này. Như thể tôi cần tìm ra một câu mở đầu, cái câu duy nhất có thể giúp tôi khởi đầu một cuốn tiểu thuyết và loại đi hết tất cả nghi ngờ, để mà trở thành chìa khóa vạn năng. Hôm nay, khi đối mặt với một tình huống mà sự sững sờ –“chuyện này là có thực sao?” – đã qua đi rồi, thì trí tưởng tượng lập tức gieo rắc những nỗi kinh hoàng ngày càng gia tăng. Tôi bị choáng ngợp bởi hiện tại này. Và việc tìm ra được câu viết ấy sẽ mang cho tôi một sự tự do cũng như những vững vàng để nói mà không run rẩy ở nơi các vị đã mời tôi đến tối nay.

GIAI TẦNG LÀ ĐỘNG LỰC CHÍNH

Để tìm ra cái câu đó, thật tình là tôi không cần phải đi đâu xa. Nó ngay lập tức xuất hiện từ những điều cũ. Trong tất cả sự rõ ràng và bạo lực vốn có, nó đã nạm ngọc và dính chặt đến không rời vào con người tôi. Trong nhật ký của mình 60 năm trước, tôi đã viết rằng “Tôi sẽ viết ra để mà trả thù cho giai tầng mình, j'écrirai pour venger ma race”. Nó như là lời lặp lại những tiếng gào thét của Rimbaud: “Tôi sẽ mãi mãi thuộc về chủng tộc thấp hèn.”

Thời ấy tôi 22 và đang học văn ở một trường tỉnh lẻ với phần lớn bạn bè là con cái của những nhà tư sản địa phương. Tôi hãnh tiến và ngây thơ tin: viết lách, trở thành nhà văn, đứng vào hàng ngũ những người lao động không có tư liệu sản xuất, ngang hàng với những công nhân nhà máy, với chủ cửa hàng (những người thường bị coi thường bởi cách cư xử, giọng nói, sự thiếu giáo dục…) là đủ để mà chống lại những sự bất công có liên quan đến nguồn gốc, xuất thân của giai tầng này. Rằng một chiến thắng cá nhân có thể xóa bỏ được hàng thế kỷ thống trị của sự ngặt nghèo - một ảo tưởng mà tôi nuôi dưỡng thông qua thành tích học tập. Làm thế nào mà thành tích ấy có thể “phản công” lại sự sỉ nhục hay là khinh thường? Chính tôi cũng không tự hỏi vào thời điểm đó.

Từ khi biết đọc, sách là bạn đồng hành của tôi và đọc là một công việc bản năng bên ngoài trường học. Sự thèm khát này được nuôi dưỡng bởi một người mẹ mà trong các giờ ít khách, bà đọc rất nhiều những cuốn tiểu thuyết và thích tôi đọc hơn là may vá, đan lát. Sách thì đắt tiền, và sự nghi ngờ về những giá trị mà nó mang tới so với những gì tôi học ở trường thì hấp dẫn hơn. Những Don Quixote, Gulliver du ký, Jane Eyre, Truyện cổ Grimm, Truyện cổ Andersen, David Copperfield, Cuốn theo chiều gió, và sau đó là Những kẻ khốn khổ, Chùm nho phẫn nộ, Buồn nôn , Người xa lạ… đã mang cho tôi cơ hội được đọc nhiều hơn “hạn ngạch” của trường, từ đó xác định những gì mà tôi muốn đọc.

Bằng cách chọn học nghiên cứu văn học, tôi đã ở lại bên trong văn học. Đây là ngành có giá trị nhất, thậm chí còn tạo được nên một phong cách riêng mà tôi đã phóng mình vào trong các tiểu thuyết của Flaubert hay Virginia Woolf, từ đó phiêu lưu theo đúng những gì đã được viết ra. Văn học chính là địa hạt mà tôi vô thức chìm vào để phản kháng lại môi trường xã hội, với quan niệm “viết không gì khác hơn là biến đổi hiện thực”.

Việc cuốn sách đầu bị từ chối in (cuốn mà tham vọng duy nhất là những nỗ lực tìm kiếm hình thức viết mới) đã không khuất phục được niềm kiêu hãnh trong tôi. Niềm tin đó là vạch trần những hoàn cảnh sống, mà trong đó có sự khác biệt giữa đàn ông và đàn bà trong một xã hội còn nặng nề về định kiến giới, nơi mà biện pháp tránh thai vẫn còn bị cấm, còn việc phá thai là một tội ác. Đã lập gia đình và có hai con, chính bởi bận rộn với việc giảng dạy cũng như quán xuyến một gia đình nhỏ mà tôi ngày càng tách xa ra khỏi việc viết và lời hứa trả thù cho giai tầng mình. Tôi không thể đọc Before The Law từ cuốn The Trial của Kafka mà không thấy trước số phận của mình: một người khi chết mà chưa bước vào “cánh cổng” riêng tôi – chính là cuốn sách mà chỉ mình tôi mới viết được ra.

Annie Ernaux tại buổi đọc diễn từ Nobel.

Nhưng đó là không tính đến hoàn cảnh riêng tư cùng những biến động của dòng lịch sử. Cái chết của cha chỉ 3 ngày sau khi tôi về nhà vào kỳ nghỉ đông, khi việc dạy dỗ những cô cậu học trò xuất thân từ tầng lớp lao động giống tôi, các phong trào phản đối ở khắp mọi nơi liên tục diễn ra… Tất cả những yếu tố này đưa tôi trở lại (qua những con đường không thể lường trước và gần gũi hơn với nguồn gốc của tôi, với “quê hương” của tôi) với cái mong muốn được viết tác phẩm bí mật, khẩn cấp tuyệt đối. Không còn ảo tưởng về việc “viết về một cái gì đó quan trọng” ở tuổi đôi mươi; giờ đây vấn đề của tôi chính là đi sâu vào những điều không thể kể của ký ức cá nhân, và đưa ra phía ánh sáng cái cách mà giai tầng tôi đã từng sinh sống. Viết để hiểu những lí do đó, bên trong cũng như bên ngoài chính bản thân tôi, đã khiến tôi rời xa khỏi nguồn gốc của mình.

Nhưng có những người với tư cách là người nhập cư không còn nói được ngôn ngữ của cha mẹ mình, hay là những kẻ đào tẩu không còn dùng thứ ngôn ngữ của thời “quá khứ”… giờ phải suy nghĩ, thể hiện bản thân một cách khác đi. Tôi cùng bọn họ sẽ phải đối mặt với những rào cản tiến thoái lưỡng nan, khi không thể viết bằng thứ ngôn ngữ từng chiếm ưu thế và đã được học - thứ mà chúng tôi đã từng thành thạo và rất ngưỡng mộ trong các tác phẩm văn chương. Bất cứ thứ gì liên quan đến cái thế giới nguồn gốc - thế giới đầu tiên đã được tạo dựng từ những cảm giác và các từ ngữ thô mộc mô tả cuộc sống hàng ngày, công việc, địa vị xã hội... giờ đây bị vô hiệu hóa. Một mặt đó chính là thứ ngôn ngữ chúng tôi được học để mà gọi tên hết thảy mọi thứ với sự thinh lặng tàn bạo của nó, ví dụ như ngôn ngữ trao đổi thân mật giữa mẹ cùng với con trai trong một tác phẩm rất hay của Albert Camus, Between Yes and No. Mặt khác nó lại là những hình mẫu của các tác phẩm được nội tâm hóa, được “sùng kính” hóa, từ đó mở ra thế giới đầu tiên và cảm thấy rằng chúng ta vẫn đang “mắc nợ” vì đã dùng thứ ngôn ngữ mới mẻ, mà có đôi khi tôi coi đó là “quê hương” thực sự của mình.

Đối với riêng tôi, những người “lập quốc” nên vương triều ấy bao gồm Flaubert, Proust và Virginia Woolf. Tuy thế khi viết những tác phẩm của riêng mình, không ai trong số họ giúp ích được gì cho tôi. Tôi phải đoạn tuyệt với những câu “hay” và “đẹp” - chính kiểu mà tôi đã dạy học trò của mình - để triệt tiêu tận gốc, và để bộc lộ ra những “vết nứt” vẫn đang hình thành trong con người mình. Điều đến với tôi một cách tự nhiên là tiếng ồn ào của thứ ngôn ngữ ẩn giấu những sự tức giận cũng như chế nhạo, thậm chí có phần thô lỗ - một thứ ngôn ngữ thái quá, nổi loạn, thường được sử dụng bởi những cá thể chịu sự sỉ nhục, xúc phạm… như là phản ứng duy nhất của họ đối với kí ức về sự khinh miệt, về sự xấu hổ và ô nhục khi nhìn thấy mình bị khinh khi.

Cũng rất nhanh chóng và nó hiển nhiên đến mức mà tôi không thể tưởng tượng ra cách nào khác để mà bắt đầu, tôi neo câu chuyện về sự rạn nứt trong con người xã hội của mình vào trong cảnh huống khi tôi còn là sinh viên. Đó là sự kiện ghê tởm đối với chính tôi. Đó cũng là điều mà chính nước Pháp ở thời bấy giờ kịch liệt lên án, khi phụ nữ tìm đến những cách phá thai dưới bàn tay bí mật của những kẻ phá thai chui. Và tôi mong muốn mô tả mọi thứ xảy ra với cơ thể mình, từ sự khám phá ra những lạc thú cho đến chu kì kinh nguyệt. Và cũng vì vậy mà tôi không hề hay biết vào thời điểm đó, cuốn sách đầu tiên xuất bản vào năm 1974 đã tự vạch ra con đường mà tôi sẽ đặt văn nghiệp mình vào, đó là “lĩnh vực” vừa mang tính chất xã hội và vừa nữ quyền một cách nào đó. Báo thù cho giai tầng này và giới tính này, kể từ lúc đó, sẽ nhập chung lại, tiến chung đến một con đường.

CÁI “TÔI” LIÊN ĐỚI

Làm sao người ta có thể suy ngẫm về cuộc sống này mà không ngẫm nghĩ đến việc viết lách, đến việc không hề băn khoăn liệu các chữ viết sẽ tự củng cố hay là phá hoại định kiến đã được chấp nhận, được nội tâm hóa về các sự vật - sự việc ngoài kia? Với tính bạo lực và chế giễu của nó, chẳng phải văn phong của “phe nổi dậy” phản ánh thái độ của người “bị trị” sao? Khi người đọc có đặc quyền về mặt văn hóa, anh ta sẽ duy trì cái nhìn áp đặt và trịch thượng đối với nhân vật xuất hiện trong sách hệt như anh ta ở ngoài đời thực.

Do đó ban đầu để tránh nhãn quan hình thành kiểu này, khi hướng vào trong cha tôi, người tôi sắp kể trong sách tới đây, tôi đã không thể chịu nổi và thấy như mình phản bội lại ông. Bắt đầu từ cuốn thứ 4, tôi đã chấp nhận kiểu viết trung lập, khách quan và hoàn toàn “phẳng” theo nghĩa không có ẩn dụ cũng như bất kì dấu hiệu của cảm xúc nào. Bạo lực không còn hiển hiện; nó đến từ chính sự thật chứ không phải từ văn bản mà tôi viết ra. Việc tìm những từ chứa đựng thực tế và cái cảm giác do thực tế đó mang lại sẽ vĩnh viễn trở thành (và vẫn còn đó cho đến ngày nay) mối quan tâm thường xuyên của tôi khi viết, bất kể chủ đề là gì.

Tôi phải chiếm dụng lấy cái ngôi “tôi”. Trong thực hành văn học, ngôi thứ nhất thường được coi là ám chỉ đến chính tác giả hơn là cái “tôi” nào khác dưới dạng hư cấu. Điều nên ghi nhớ là ngôi xưng “tôi”, cho đến hôm nay vẫn là đặc quyền của giới quý tộc khi kể lại những chiến công trong các hồi kí của mình. Ở Pháp đó là những cuộc chinh phạt thế kỉ 18, là sự khẳng định những quyền bình đẳng của các cá nhân và quyền trở thành chủ thể trong những câu chuyện, như Jean-Jacques Rousseau đã từng tuyên bố trong phần mở đầu của cuốn Confessions: “Và cũng đừng ai phản đối rằng là, là người của quần chúng, tôi không có gì khiến anh để tâm. […] Dù tôi đã sống một cách mù mờ theo kiểu nào đó, thì nếu tôi nghĩ sâu hơn và đủ nhiều hơn so với Vua tôi, thì câu chuyện về tâm hồn tôi chắc chắn là thú vị hơn câu chuyện của họ.”

Annie Ernaux nhận kỉ niệm chương tại đêm trao giải.

Không phải là sự “thượng đẳng” đã thúc đẩy tôi, mà là mong muốn sử dụng cái “tôi” – một hình thức phi cá nhân, vừa nam tính vừa nữ tính – như một công cụ khám phá để ghi lại những cảm giác: những cảm xúc mà kí ức đã chôn vùi, những cảm giác mà thế giới xung quanh không ngừng mang đến mọi nơi mọi lúc. Những cảm giác này trở thành điều kiện tiên quyết, là “kim chi nam” đảm bảo cho tính xác thực trong các “khảo sát” của tôi. Nhưng để làm gì? Không phải để kể câu chuyện về cuộc đời tôi hay là giải phóng chính bản thân tôi khỏi những bí mật, mà là giải mật một số tình huống, một số sự kiện, những mối quan hệ… từ đó tiết lộ một điều gì đó mà chỉ viết lách mới tạo được ra, và rồi truyền vào ý thức, ký ức của những người khác. Ai có thể nói tình yêu và nỗi đau, tang tóc và xấu hổ… là không phổ biến? Victor Hugo đã từng viết rằng: “Không ai trong số chúng ta có vinh dự được sống cuộc đời chỉ của riêng mình.”

Nhưng vì tất cả mọi thứ đều được tồn tại một cách vững chắc trên nền tảng cá nhân – “điều này xảy đến với tôi” – nên chúng chỉ có thể đọc theo cùng một cách, khi mà cái “tôi” của cuốn sách này trở nên trong suốt (theo nghĩa nào đó) so với cái “tôi” thuộc về người đọc sẽ chiếm hữu nó và nhuộm màu nó. Khi đó có thể nói rằng, cái “tôi” này (nói theo cách khác) đã trở thành một sự liên đới đa-cá-nhân.

NỮ QUYỀN VÀ CHÍNH TRỊ

Đây là cái cách mà tôi hình thành cam kết về việc viết lách của mình: không bao giờ viết “cho” một loại độc giả, mà là viết “từ” trải nghiệm dưới tư cách là một phụ nữ và là một người nhập cư trong chính nước Pháp, từ những kí ức ngày càng dài hơi về những năm tháng đã từng sinh sống cho đến hiện tại - một nguồn cung cấp vô tận hình ảnh cũng như lời nói của những người khác. Cam kết bằng ngôn ngữ này được hỗ trợ bởi niềm tin (điều đã trở nên chắc chắn) rằng một cuốn sách có thể góp phần thay đổi cuộc sống riêng tư, giúp phá vỡ nỗi cô đơn của những trải nghiệm khi phải chịu đựng một cách kìm nén, đồng thời giúp cho người ta hình dung lại bản thân mình. Khi điều gì đó không thể nói ra được đưa ra ánh sáng, thì đó chính là chính trị.

Ngày nay, chúng ta nhìn thấy điều đó trong cuộc nổi dậy của những phụ nữ đã tìm ra được ngôn từ để phá vỡ quyền lực của nam giới và cũng đã có những người đứng dậy, như ở Iran, khi họ chống lại hình thức tưởng cổ xưa nhất. Tuy nhiên viết văn ở một đất nước dân chủ, tôi lại tiếp tục băn khoăn về vị trí của phụ nữ trong văn chương ngày nay. Họ vẫn chưa đạt được tính hợp pháp với tư cách là chủ nhân của những tác phẩm của mình. Có những người đàn ông trên thế giới này, bao gồm cả giới trí thức phương Tây, với họ đơn giản là không tồn tại tác phẩm do nữ giới viết; họ không trích dẫn những cuốn sách đó bao giờ. Việc Viện hàn lâm Thụy Điển công nhận tác phẩm của tôi là một dấu hiệu hy vọng cho tất cả các nhà văn nữ.

Khi làm sáng tỏ những điều không thể nói ra của xã hội, về những mối quan hệ quyền lực được nội tâm hóa liên quan đến giai cấp, và/hoặc đến chủng tộc, và cả giới tính… thì chúng chỉ được cảm thấy bởi ai đã từng trực tiếp trải qua các tác động này. Khi đó khả năng giải phóng cá nhân đối với tập thể đã kịp xuất hiện. Giải mã thế giới bằng cách tước bỏ khỏi nó tầm nhìn và giá trị mà ngôn ngữ mang lại chính là đảo lộn trật tự đã được thiết lập, đảo lộn những gì đã được sắp xếp trước đó.

Nhưng tôi không ép tác phẩm văn chương thực hành chính trị, mà nó tùy thuộc vào sự tiếp nhận của người đọc, với những lập trường mà tôi cảm thấy sẽ phải viết ra đối với sự kiện, xung đột và ý tưởng của bản thân mình. Tôi lớn lên thuộc thế hệ hậu chiến, sau Thế chiến thứ hai, khi các nhà văn và tri thức đặt mình vào trong vị trí của giới chính trị nước Pháp, và việc tham gia vào các đấu tranh xã hội như lẽ tất nhiên. Ngày nay, không thể nói rõ mọi thứ có khác đi không nếu con người ta không hề lên tiếng cũng như cam kết một điều gì đó. Thế giới mới nơi sự đa dạng của các nguồn tin cũng như tốc độ hình ảnh như một cơn lốc đã kịp hình thành một dạng thờ ơ, nơi việc tập trung vào trong nghệ thuật của một cá nhân là đầy cám dỗ. Nhưng trong khi đó ở châu Âu, một hệ tư tưởng vô lo cũng như “tam không” đang dần gia tăng, và bị che đậy chính bởi bạo lực của một cuộc chiến do nhà độc tài nước Nga tiến hành. Được củng cố dựa trên hành động loại trừ những người nước ngoài và người nhập cư, bỏ rơi những người yếu thế về mặt kinh tế, giám sát cơ thể phụ nữ… hệ tư tưởng này đòi hỏi một nghĩa vụ hết sức cảnh giác, đối với chính tôi và với tất cả những người luôn coi giá trị của một con người ở mọi lúc mọi nơi đều là như nhau.

Bằng cách trao cho tôi danh hiệu văn học cao quý nhất, có một ánh sáng rực rỡ đang chiếu vào việc viết lách cũng như nghiên cứu cá nhân thường được thực hiện trong sự cô đơn và nỗi nghi hoặc. Thứ ánh sáng này không thể làm tôi lóa mắt. Tôi không coi giải Nobel được trao cho mình là một chiến thắng cá nhân, mà theo một nghĩa nào đó (không phải bởi vì tự hào hay là khiêm tốn) mà tôi coi nó là một chiến thắng tập thể. Tôi chia sẻ niềm tự hào về nó với những người mà bằng cách này hay cách khác, luôn luôn hi vọng về tự do, bình đẳng và phẩm giá cao hơn cho tất cả mọi người, bất kể giới tính hay bản dạng giới, bất kể màu da hay là văn hóa… và với những người nghĩ về các thế hệ tương lai, về việc bảo vệ một Trái đất nơi số ít người tham những lợi nhuận, từ đó khiến cuộc sống ngày càng khó khăn đối với tất cả quần thể.

*

Nhìn lại lời hứa năm 20 tuổi để trả thù cho giai tầng của mình, tôi không thể nói liệu mình thực hiện được chưa. Nhưng chính từ lời hứa này, và từ tổ tiên những người đàn ông cũng như đàn bà quen làm những việc khiến họ… chết sớm, thì tôi đã nhận được đủ sức mạnh và sự cuồng nộ để có khát khao cũng như tham vọng cho một vị trí trong văn học giữa đám đông này. Những tiếng nói mà ngay từ sớm đã đồng hành cùng tôi, cho phép tôi tiếp cận với những thế giới khác và những cách tồn tại khác, bao gồm cả cách chống lại và muốn thay đổi, đã giúp khắc ghi tiếng nói của tôi dưới tư cách là một phụ nữ và “kẻ đào tẩu”, được thể hiện mình trong một không gian văn chương đã được giải phóng.

LINH TRANG dịch theo bản ghi của Alison L. Strayer, các đề mục nhỏ do người dịch đặt cho độc giả dễ dàng theo dõi.

VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Vòng quay ra con số vòng xoay ra phận đời

Vòng quay ra con số vòng xoay ra phận đời

Tôi nhớ cho đến đầu năm lớp 9, một đêm Dưỡng đạp xe qua nhà tôi cho lại bộ sách rất mới. Dưỡng bảo nghỉ học. Chỉ vậy thôi rồi Dưỡng đi... (TỐNG PHƯỚC BẢO)

Cây thốt nốt quỳ trên núi Tưk-cot

Cây thốt nốt quỳ trên núi Tưk-cot

Tôi được nhiều lần sang Campuchia cùng các đội chuyên trách tìm kiếm, cất bốc, hồi hương hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hi sinh qua các thời kì chiến tranh... (HỒ KIÊN GIANG)

Nguyên mẫu trong hai truyện vừa đầu tay viết cho thiếu nhi của tôi

Nguyên mẫu trong hai truyện vừa đầu tay viết cho thiếu nhi của tôi

Khi viết cuốn Những tia nắng đầu tiên tôi đã hóa thân vào các em nhỏ học sinh lớp 6 của năm học 1969 - 1970 ở Hà Nội... (LÊ PHƯƠNG LIÊN)

Bà Minh của tôi

Bà Minh của tôi

Sống ở Hà Nội, trở thành một công dân có hộ khẩu đến nay đã hơn hai thập kỉ, nhưng chưa bao giờ tôi có cảm giác mình thuộc về Hà Nội... (ĐỖ BÍCH THÚY)