. NGUYỄN THANH TÚ
Khi nhà văn kéo độc giả vào truyện thì độc giả trở thành một nhân vật tham gia vào câu chuyện. Lúc này câu chuyện có hai truyện kết cấu theo kiểu truyện trong truyện. Lớp truyện 1: Đối thoại giữa người kể với độc giả - nhân vật. Lớp truyện 2: nội dung câu chuyện được kể. Lớp truyện 1 có thể ở vị trí mở đầu văn bản có tác dụng dẫn dắt người đọc vào lớp truyện 2: “Tôi đã nói chuyện về các ông nghị thanh liêm. Bây giờ, tôi phải nói đến các quan cai trị có đạo đức. Như các bạn biết đấy, để bảo vệ cho một chế độ cướp bóc, phải có quân ăn cướp” (Tập 1, tr 367). Hay:
“Các bạn thân mến,
Báo cáo này xin miễn kể lại những trận oanh liệt ở Plây Cu, Tuy Hoà, Quy Nhơn, Phù Mỹ...,” (Tập 11, tr 399) ; hoặc có thể ở vị trí giữa văn bản như cái dấu gạch nối giữa hai sự kiện hoặc để đưa người đọc sang một tình tiết mới của nội dung câu chuyện: “Một chuyện khác... Thôi, kể thế đủ rồi. Chúng ta hãy ngừng lại đây và sang chương khác, để thay đổi món đi một chút” (Tập 1, tr 369); có thể ở vị trí cuối văn bản để cùng bạn đọc rút ra nhận định, kết luận về nội dung câu chuyện vừa kể: “Bà con xem, do Tết trồng cây, mà đất nước ta càng thêm xinh tươi, nhân dân ta càng thêm giàu có” (Tập 10, tr 264). Đây là cách kể hiện đại đậm tinh thần dân chủ, nó tạo ra sự bình đẳng “bằng vai phải lứa” giữa người kể và bạn đọc, nhất là tính đối thoại được thể hiện rất rõ nét.
- Độc giả - nhân vật nhận định, phẩm bình về nội dung câu chuyện
“Khi bà cụ người An Nam đáng thương bị ngã quay xuống đất, đáng lẽ phải cấp cứu cho bà, thì người cộng tác viên của ông Xarô ấy lại cho gọi lý trưởng đến và ra lệnh cho lý trưởng đem người bị thương đi nơi khác. Lý trưởng từ chối không làm. Viên đoan liền cho gọi chồng người bị nạn đến, - ông này bị mù, - ra lệnh bắt ông phải đem vợ đi. Hiện nay, bà cụ già khốn khổ đó đang nằm nhà thương.
Bạn có muốn đánh cuộc rằng hai ông đoan của chúng ta ở Nam Kỳ, cũng như bạn đồng nghiệp của họ là vị quan cai trị nọ ở châu Phi, có bị làm rầy rà gì không? Họ hẳn đã được thăng chức nữa kia đấy” (Tập 1, tr 84).
Tiêu đề của câu chuyện có đoạn trích này là Những kẻ đi khai hoá in trên báo Le Paria, số 4, ngày 1/7/1922. Mảnh đoạn trên mang chức năng miêu tả cảnh một nhân viên nhà đoan đánh một cụ già làm nghề gánh muối. Dù là miêu tả trung tính nhưng người đọc vẫn thấy rất rõ quan điểm của người kể là tố cáo tội ác mất tính người của kẻ đánh, đồng thời tỏ lòng thương cảm với kiếp nô lệ bị đoạ đày như kiếp trâu ngựa. Hành vi thú vật được miêu tả theo lối tăng cấp càng làm rõ hơn tội ác: đánh một bà cụ già đến ngất đi, không những không cấp cứu mà còn bắt người chồng mù, dĩ nhiên cũng đã già phải mang bà cụ đi. Đó không phải hành vi của người mà chỉ có thể là của thú vật vô cảm, tàn bạo, đểu cáng. Mảnh đoạn sau người kể kéo bạn đọc tham gia vào câu chuyện: “B¹n cã muèn ®¸nh cuéc r»ng…”. Người kể tự cho mình cái quyền đã quen biết người đọc, vì theo lôgich tâm lý thông thường người ta chỉ “đánh cuộc” với nhau khi đã là chỗ quen biết, không ai dám “đánh cuộc” với người lạ. Quan điểm kể thân tình, tin tưởng, tôn trọng tối đa người đọc càng tăng cường thêm cho tính chân thực của nội dung câu chuyện vừa kể. Và cái chính là gây bất ngờ nơi độc giả: bạn đọc sẽ suy nghĩ là kẻ gây ra tội ác thì sẽ bị trừng phạt. Đấy là lẽ công lý đơn giản nhất. Thế mà ngược lại: “Họ hẳn đã được thăng chức nữa kia đấy”. Bạn đọc sẽ tự rút ra nhận xét về công lý ngược đời của thực dân là: khuyến khích tội ác!
“Thế nhưng, mới đây, mặc dầu bị dư luận An Nam phản kháng, Hội đồng chính phủ Đông Dương cũng đã nhất trí tán thành dự án ấy. Muốn hiểu rõ sự nhất trí đó có giá trị đến đâu, thì cũng cần biết rằng hội đồng đó gồm có Toàn quyền Đông Dương, tướng Tổng tư lệnh quân đội Đông Dương và độ ba chục viên chức cao cấp người Pháp, cộng thêm năm viên quan lại bản xứ do viên toàn quyền nặn ra. Ây thế mà tất cả các ngài ấy lại cho rằng họ thay mặt cho cả Đông Dương và hành động vì lợi ích của nhân dân An Nam!
Các bạn hãy tưởng tượng mà xem, người Etxkimô hay người Dulu mà lại quyết định vận mệnh của một dân tộc châu Âu!” (Tập 1, tr 244). Người Etxkimô vốn là dân cư miền Bắc cực, người Dulu là những bộ tộc sống ở miền Nam châu Phi. Từ cái ngược đời này để nói về cái ngược đời khác, ngược đời ở Đông Dương: mốt số rất ít người Pháp lại có thể “thay mặt cho cả Đông Dương”. Người kể kéo bạn đọc vào truyện: Các bạn hãy tưởng tượng mà xem, và nhường quyền kết luận cho bạn đọc về sự kiện này. Trong bài viết Đông Dương và Thái Bình Dương in trên Le Paria, số 24, tháng 4/ 1924, Nguyễn Ái Quốc báo động với cả thế giới về sự có thể xảy ra chiến tranh trên quy mô toàn cầu và đặc biệt nhấn mạnh đến cuộc sống khốn khổ của dân các xứ thuộc địa của Pháp. Tác giả đưa ra những số liệu cụ thể về sự suy giảm dân số thuộc địa do chính sách ngu dân bằng rượu cồn và lao dịch của thực dân và khẩn thiết nói với bạn đọc về sự diệt vong khủng khiếp này, qua đó kêu gọi mọi người cùng nhau ngăn chặn thảm hoạ ấy:
“Các bạn hãy cộng thêm vào sự bóc lột vô nhân đạo ấy sự tồi tệ của bọn vô lương mà đế quốc Pháp giao cho cai trị các đảo đó, thì các bạn sẽ thấy tất cả cái tốt đẹp của chế độ bóc lột và áp bức đang đưa các nước bị chiếm làm thuộc địa ở Thái Bình Dương đến chỗ chết và diệt vong” (Tập 1, tr 245).
Trong một bài báo kể tội những kẻ xâm lược Pháp tàn phá, cướp bóc, giết chóc ở các nước thuộc địa mà tác giả mỉa đó là : “Những thảm hoạ của nền văn minh”, vì là bài dài, vừa để bạn đọc đỡ mệt, vừa để chuyển sự kiện, người viết khéo léo đối thoại với bạn đọc: “Tôi phải nhắc để các bạn nhớ rằng tất cả những câu chuyện này, cũng như những chuyện tôi sẽ kể thêm, đều do người Pháp đã mắt thấy tai nghe, viết ra. Khi họ viết, có lẽ họ không nghĩ rằng, một ngày kia sẽ có một người An Nam đọc những chuyện đó; nếu biết rằng tôi đã sử dụng những tài liệu họ viết, chắc chắn là những nhà văn đó sẽ hối hận vì đã nói hết sự thật. Nói rõ như vậy rồi, tôi xin tiếp tục:
Một đại đội hải quân đến Vĩnh Long (Nam Kỳ). Viên quan tỉnh đưa lính tập đi đón khách thật long trọng. Tên chỉ huy đội tuần tiễu ra lệnh bắn vào những người đi đón họ và giết chết mất nhiều người một cách thật vẻ vang…” (Tập 1, tr 352). Lời đối thoại của người kể với bạn đọc như ở ví dụ này có giá trị như cái bản lề vừa có tác dụng xâu chuỗi các sự kiện vừa có tác dụng khép mở các không gian của những câu chuyện khác nhau. Cũng ở ví dụ này trước phần đối thoại ấy là câu chuyện xảy ra ở không gian Bắc Kỳ, sau lời đối thoại là không gian Vĩnh Long (Nam Kỳ). Bạn đọc đứng ở vị trí cái bản lề câu chuyện còn tác giả là người khép mở các cánh cửa không gian để đưa bạn đọc vào từng cảnh huống, từng sự kiện. Hoặc chúng ta có thể tưởng tượng lời đối thoại của tác giả như là cái gáy quyển sách vậy, cái gáy sách này vừa tạo cho quyển sách câu chuyện chặt chẽ, vững chắc, bạn đọc lật giở từng trang sự kiện để đọc và suy ngẫm: “Ngài đã phạm không biết bao nhiêu tội ác đến nỗi người An Nam ở tỉnh ngài cai trị phải nổi dậy. Hàng trăm người Pháp và An Nam đã phải hy sinh, và thiệt hại có đến hàng triệu bạc.
Các bạn có biết nước Cộng hoà Pháp đã cho tên sát nhân ấy làm gì không? Sau cuộc nổi dậy, nước Cộng hoà Pháp đã cho hắn làm chánh chủ khảo các trường học lớn ở Bắc Kỳ, rồi thì làm đổng lý văn phòng của quan thống đốc, nghị viên hội đồng thuộc địa ở Nam Kỳ kiêm giám đốc uỷ nhiệm các nhà máy rượu.
Một chuyện khác... Thôi, kể thế đủ rồi. Chúng ta hãy ngừng lại đây và sang chương khác, để thay đổi món đi một chút” (Tập 1, tr 369).
Để tranh thủ sự ủng hộ của độc giả, người kể vừa tôn trọng tầm trí tuệ của bạn đọc vừa coi bạn đọc như là những người đã biết hết, những điều “tôi” có nói ra chẳng qua cũng là sự nhấn mạnh mà thôi. Lúc này thường xuất hiện cụm từ: Như các bạn biết đấy. Điều này tạo ra hai hiệu quả nghệ thuật, một là tính hiện thực, nội dung câu chuyện được kể như là một sự thật hiển nhiên, bạn đọc thừa nhận rồi; hai là tính thuyết phục tạo cho câu chuyện sự bình đẳng dân chủ, tạo ra một độ mở cần thiết để bạn đọc phán xét, người kể không áp đặt: “Tôi đã nói chuyện về các ông nghị thanh liêm. Bây giờ, tôi phải nói đến các quan cai trị có đạo đức. Như các bạn biết đấy, để bảo vệ cho một chế độ cướp bóc, phải có quân ăn cướp. Họa hoằn có một viên quan cai trị nào lại thật thà và hiểu biết hơn, lập tức viên ấy bị đàn lang sói quan thầy hay bè bạn xua đuổi đi ngay. Thành thử ra 99% quan cai trị là quân trộm cắp, chỉ nghĩ đến bóc lột dân bản xứ để làm giàu, chẳng kiêng nể gì tài sản, quyền lợi, tự do, đời sống của những người bị cai trị cả” (Tập 1, tr 367). Ở trường hợp sau khi trình bày với bạn đọc xong một vấn đề, để chuyển sang một vấn đề khác, phức tạp, quan trọng hơn, người kể xác nhận sự thật khách quan của vấn đề sắp nói, và nó quá xa với tưởng tượng của bạn đọc, vì nó phi lý quá, ngược đời quá nên người kể phải rào đón kiểu như thế này: “Các bạn có thể tưởng tượng được như thế không?”: “ Nói xong vấn đề giáo dục, thì tự nhiên chúng tôi nghĩ ngay tới câu hỏi: Thế còn báo chí? Những điều tôi sẽ kể về báo chí An Nam nó kỳ dị quá đến nỗi khó mà tin được. Giữa thế kỷ XX này, ở một nước có đến 20 triệu dân mà không có lấy một tờ báo! Các bạn có thể tưởng tượng được như thế không? Không có lấy một tờ báo bằng tiếng mẹ đẻ của chúng tôi. Lý do như thế này. Chính quyền Pháp quyết định rằng không một tờ báo bằng tiếng An Nam nào được xuất bản nếu không được viên toàn quyền cho phép, rằng họ chỉ cho phép với điều kiện là bản thảo đưa đăng phải trình viên toàn quyền duyệt trước đã, và giấy phép ấy họ thu hồi lúc nào cũng được...” (Tập 1, tr 403).
Dĩ nhiên kéo độc giả vào câu chuyện chỉ là phương tiện nghệ thuật để nhằm đạt một mục đích nội dung, mà theo chúng tôi, thời kỳ Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở nước Pháp có hai mục tiêu lớn là tố cáo tội ác của thực dân Pháp không chỉ ở Đông Dương mà ở tất cả các nước thuộc địa và thức tỉnh, thức tỉnh nhân dân các nước thuộc địa, thức tỉnh nhân dân tiến bộ Pháp cũng như trên thế giới. Ở ví dụ sau thì mục đích của người kể không phải là nói về “cuộc đấu tranh tuyệt vọng của một dân tộc bị áp bức” mà hướng tới một nội dung tố cáo tội ác, ca ngợi sức sống dẻo dai không chịu khuất phục bởi cường quyền bạo lực của nhân dân An Nam: “Trong cuộc đấu tranh tuyệt vọng của một dân tộc bị áp bức có nhiều hành động oanh liệt và nhiều sự hy sinh lớn, giá kể được ở đây để các bạn biết thì hay lắm, nhưng không thể nói hết được trong phạm vi nhỏ hẹp của buổi nói chuyện này của chúng ta. Vậy nên tôi chỉ có thể nhắc lại đây một đoạn hồi ký của Phó đô đốc Rêvâye như sau...” (Tập 1, tr 412). Rõ ràng lời đối thoại giá kể được ở đây để các bạn biết thì hay lắm đã làm tốt chức năng là cái “cầu nối” hai câu chuyện, đưa bạn đọc từ câu chuyện này (chưa cần thiết biết kỹ) sang câu chuyện kia (cần biết kỹ để hiểu sâu hơn).
Sự kiện nước Pháp xâm lược rồi đô hộ, bóc lột, vơ vét, tàn phá nước An Nam nhỏ bé đáng thương là trái với đạo lý quốc tế. Nước Pháp tự hào là một nước văn minh mà có những hành động phản văn minh đã gây ra một sự ngạc nhiên lớn cho nhân loại tiến bộ. Nhân loại tiến bộ sẽ còn ngạc nhiên hơn nữa khi biết người Pháp cai trị các nước thuộc địa bằng các phương cách lạ đời, ngược đời. Nguyễn Ái Quốc đã góp phần làm sáng rõ thêm cái ngạc nhiên ấy của độc giả khắp thế giới lại là sự thật: “Vận mệnh hai mươi triệu người An Nam tốt số đang nằm trong tay ông Mácxian Méclanh.
Các bạn sẽ hỏi tôi: "Cái ông Méclanh ấy là ai vậy?". Đó là một ông đã từng làm quan cai trị ở quần đảo Gămbiê, sau giữ chức phó thống đốc Tây Phi, rồi lên làm thống đốc xứ ấy. Đó là một ông đã bỏ ra ba mươi sáu năm của đời mình để nhồi nhét cái văn minh đầy ân huệ của nước Pháp vào đầu óc người bản xứ.
Có lẽ các bạn cho rằng đưa một người không hiểu gì về Đông Dương đến nắm vận mệnh Đông Dương thì thật là một trò hề lớn kiểu Đông Dương chứ gì.
Đúng đấy! Nhưng đó là cái "mốt". Một bạn đồng nghiệp cho biết rằng: tại Bộ Thuộc địa, một viên quan cai trị cũ ở Đông Dương ngồi chễm chệ tại vụ Tây Phi thuộc Pháp; một viên quan cai trị cũ ở Tây Phi phụ trách vụ châu Phi xích đạo thuộc Pháp; một viên chức cũ ở Xuđăng phụ trách những vấn đề về Mađagátxca; còn đại diện cho xứ Camơrun ở hội chợ triển lãm thuộc địa lại là một viên chức chưa hề bao giờ đặt chân lên đất Camơrun” (Tập 2, tr 44). Cả các bạn và cả tôi đều cho rằng đó là “một trò hề lớn kiểu Đông Dương” không có gì đáng ngạc nhiên nữa, vì đó là cái "mốt" của người Pháp! Còn bạn nào chưa tin một điều gì tôi liền chứng minh cụ thể, chứng cứ, số liệu thực tế hẳn hoi, Các bạn thấy chưa, sự thật ngược đời là như thế: “…Các bạn thấy chưa, ông Oabrăng quả thật xứng đáng với... phần thưởng công minh mà chính phủ vừa tặng ông bằng cách bổ nhiệm làm biện lý Đaca (?) Nền văn minh thượng đẳng mà được giao phó vào tay những bọn Đáclơ, bọn Bôđoăng, bọn Oabrăng và bọn Luycaxơ thì thật là tuyệt, và số phận dân bản xứ cũng tuyệt!” (Tập 2, tr 95). Cần nói rõ thêm vì sao “ông Oabrăng quả thật xứng đáng với... phần thưởng công minh mà chính phủ vừa tặng” là nhờ ông ta …làm chết một em bé bản xứ nhưng lại khôn khéo chạy tội rồi bợ đỡ quan trên. Đúng là “thật là tuyệt, và số phận dân bản xứ cũng tuyệt!” vì có những kẻ giết người, đểu cáng, khốn nạn như thế. Nước Pháp là như thế: Các bạn thấy chưa! Các bạn hết ngạc nhiên chưa!
Dễ nhận ra sự đa dạng vai kể của tác giả Nguyễn Ái Quốc: vai người kể chuyện, vai người dẫn chuyện, vai người đối thoại, vai người nói chuyện… Có một vai kể khác rất quan trọng thể hiện rõ tầm suy nghĩ giàu tinh thần triết lý mà nhân bản ở Nguyễn Ái Quốc là vai kể chuyện ngụ ngôn: “Hãy nghe câu chuyện ngụ ngôn này. Tất cả các bạn, hãy im lặng và lắng nghe!
Loài vật đang tranh nhau công trạng
Con rồng mày râu óng ánh, mào và vảy rực rỡ lên tiếng trước tiên:
- Ta là thuỷ tổ của giống nòi An Nam từng chứng kiến sinh ra biết bao vị anh hùng lừng lẫy.
Đến lượt tôm: - Anh bạn nói đùa đấy chứ. Phận tôi còn sướng hơn phận người An Nam. Anh hãy nhìn thân hình tôi. Nó còng xuống là theo ý trời, trong khi đó con cháu anh thì xương sống gập xuống dưới gánh nặng sưu thuế và khổ sai.
Cừu nói: - Lời anh nói khiến…” (Tập 2, tr 444). Chúng ta hãy chú ý tới chủ ngữ ẩn trong lời dẫn chuyện: Hãy nghe câu chuyện ngụ ngôn này. Tất cả các bạn, hãy im lặng và lắng nghe! Ai kể? Có thể là Nguyễn Ái Quốc, có thể là một ai đó, cũng có thể đó là lời kể của lịch sử nước An Nam…tuỳ người nghe hiểu theo sự hiểu biết của mình. Lời đối thoại của người kể ẩn với bạn đọc “người An Nam” sau khi kể xong câu chuyện góp cùng ý nghĩa của ngụ ngôn, tăng cường thêm ý nghĩa của ngụ ngôn để có tác dụng thức tỉnh cả dân tộc An Nam đang u mê trong bóng đêm nô lệ: “Ôi, những người An Nam, các anh phải luôn nhớ rằng đoàn kết làm nên sức mạnh!”.
Thực dân Pháp tự cho mình là một nước “văn minh” rồi tự cho mình cái quyền đem cái văn minh ấy đi “khai hoá” ở các nước thuộc địa lạc hậu, tối tăm, thấp kém. Chúng “khai hoá” nước An Nam ta bằng tàn phá, giết chóc… Để vạch trần bộ mặt giả dối với “nhân đạo”, “bác ái” mà thực chất là giết người, tác giả lấy ngay một văn bản là một bức thư của tên quan ba Diot gửi cụ Đinh Công Phú- Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến tỉnh Hoà Bình. Cụ Đinh Công Phú là người dân tộc Mường, người thật, việc thật. Bức thư cũng là sự thật có ngày tháng và ký tên người gưỉ hẳn hoi. Bức thư có đoạn:
"... Ông chống cự lại bộ đội Pháp.
"Đương cục Pháp không thể để thế mãi... Nhưng theo nguyên tắc khoan hồng của người Pháp, đương cục Pháp sẽ để cho ông một dịp cuối cùng:
"Thay mặt cho bộ chỉ huy là kẻ bảo hộ xứ này, tôi ra lệnh cho ông một lần cuối cùng: Trước ngày 15 tháng 11 năm 1947, ông phải đem nộp tất cả súng ống và bộ hạ của ông cho tôi. Nếu quá hạn đó mà ông chưa làm theo lệnh này thì tôi sẽ đốt hết các làng, đốt sạch cả lúa, lấy hết cả trâu bò, bắt hết cả dân sự, sẽ làm cho xứ sở ông tan nát, sẽ truy nã ông đến cùng, và sẽ không để cho ông trông thấy quê cha đất tổ của ông".
Ngày 25 tháng 10 năm 1947
Ký tên: Quan ba Diot.
Đó, đồng bào đã thấy "văn minh" của Pháp chưa?” (Tập 5, tr 365).
Sau bức thư người kể đối thoại với bạn đọc: “Đó, đồng bào đã thấy "văn minh" của Pháp chưa?”. Như vậy đối tượng bạn đọc ở đây đã được người kể xác định rõ là “đồng bào”, cũng vì thế mà câu đối thoại cũng hết sức dân dã, đậm tính khẩu ngữ. Thái độ mỉa mai cái gọi là “văn minh” mà kẻ thù Pháp tự rêu rao trong ngữ điệu lời văn người kể là rất rõ, đồng thời nó kêu gọi sự hưởng ứng của “đồng bào”. Mà sự hưởng ứng này là tất nhiên, hiển nhiên vì người kể đã đưa ra bằng chứng hiển nhiên, không cần phân tích “đồng bào” cũng thấy ngay kẻ thù có một thái độ trịch thượng: “sẽ để cho ông một dịp cuối cùng”, “ra lệnh cho ông một lần cuối cùng”; một tâm địa dã man mà trắng trợn: “Nếu quá hạn đó mà ông chưa làm theo lệnh này thì tôi sẽ đốt hết các làng, đốt sạch cả lúa, lấy hết cả trâu bò, bắt hết cả dân sự, sẽ làm cho xứ sở ông tan nát, sẽ truy nã ông đến cùng, và sẽ không để cho ông trông thấy quê cha đất tổ của ông". Đúng là “văn minh” ngược đời chỉ có ở thực dân xâm lược Pháp!
Để cho sự đánh giá về nội dung câu chuyện được khách quan, thường là người kể đưa ra trước cho bạn đọc biết thông tin cơ bản nổi bật của vấn đề rồi sau đó “kéo” bạn đọc vào và để họ tự bình luận, đánh giá:
“Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ đi Triều Tiên về báo cáo rằng:
Trước khi sang Triều Tiên, y không ngờ tinh thần quân đội Mỹ thấp kém đến tệ hại như thế. Đại đa số lính Mỹ thiếu tinh thần chiến đấu, và chỉ mong mau mau được về quê hương họ. Nhiều quan chỉ huy Mỹ phải nhận rằng: đó là vì binh sĩ Mỹ không biết vì mục đích gì mà họ phải chiến tranh...
Một nhà quân sự khác đi Triều Tiên về, cũng báo cáo: "Mấy tháng gần đây, số binh lính Mỹ chết và bị thương từ mỗi tuần 2 ngàn người đã tăng đến mỗi tuần 7 ngàn người. Theo đà ấy, thì quân đội Mỹ ít nhất cũng phải 20 năm mới đến được bờ sông Áp Lục" (báo Mỹ 14-11-51).
Còn Tổng tư lệnh Anh ở Viễn Đông thì tuyên bố:
"Quân chí nguyện Trung Quốc đã trở nên một thứ quân đội giỏi bậc nhất. Họ đánh hăng, bắn giỏi, huấn luyện kỹ càng, trang bị đầy đủ. Họ có thể đánh chúng ta bể đầu đổ máu" (báo Anh 14-11-51).
Bà con cứ so sánh những lời nói của bọn quân phiệt Mỹ và Anh, thì có thể đoán: ai sẽ bại, ai sẽ thắng” (Tập 6, tr 380). Chủ đề “đối thoại” với “bà con” của người kể là “tinh thần quân đội Mỹ thấp kém đến tệ hại” và" Quân chí nguyện Trung Quốc đã trở nên một thứ quân đội giỏi bậc nhất”. Để có sức chinh phục bà con thì không thể là “quân ta” kể, vì nếu vậy có “bà con” sẽ cho là mình “nói xấu” bọn quân phiệt Mỹ và Anh mà “tô vẽ” cho “bên mình” tức quân chí nguyện Trung Quốc, mà phải có cách “vạch áo cho người xem lưng”. Và không phải là người bình thường, phải là “Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ đi Triều Tiên về báo cáo rằng”, phải là “Một nhà quân sự khác đi Triều Tiên về, cũng báo cáo”, và cũng phải là một “Tổng tư lệnh Anh ở Viễn Đông” hẳn hoi “tuyên bố”…Để tăng cường lượng sự thật về thông tin trong báo cáo của các vị “tai to mặt lớn”, người kể rất chú ý đến tính thực tế cập nhật nóng hổi của vấn đề, không hề ngẫu nhiên mà có sự cố tình nhấn mạnh đến thành phần trạng ngữ của lời kể: “Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ đi Triều Tiên về báo cáo rằng”, “Một nhà quân sự khác đi Triều Tiên về, cũng báo cáo”, “Tổng tư lệnh Anh ở Viễn Đông thì tuyên bố”
Từ ngày 19-4 đến ngày 21-5-1954, trên báo Cứu quốc, với bút danh Đ.X Bác Hồ viết 15 bài báo có tiêu đề chung Mật thám Mỹ, mỗi kỳ đăng có ghi số lần lượt từ 1 đến 15. Cuối mỗi bài báo có cách mời gọi kéo người đọc vào nội dung câu chuyện theo lối kể chương hồi của tiểu thuyết cổ điển phương Đông:
“Nếu bà con muốn biết nội dung hai quyển ấy, xin tiếp tục xem những kỳ báo sau”.
“Họ nói thế nào kỳ sau sẽ tiếp”.
“Năm 1943 – (Anbeca là một cố vấn tối cao của tổng thống Mỹ đã ghi trong nhật ký của y) xin xem kỳ sau”.
“Trong bản sổ tay nói những gì?” (Kỳ sau tiếp theo)
(Kỳ sau: nhật ký của tướng Mỹ mật thám Gơrô)
“Tuy Gơro trong lòng thì khinh đại sứ Mỹ là cấp trên của hắn, nhưng khi nào đại sứ Mỹ khen hắn thì hắn cũng lấy làm đắc ý, ví dụ: tiếp kỳ sau…”
Đây không đơn thuần chỉ là chuyện hình thức kể gây sự tò mò theo dõi ở bạn đọc về tính chất ly kỳ, lạ mà có thật với những kiểu dựng biến cố, những phi vụ điệp báo, tình báo … của mật thám Mỹ mà còn là cách kể kéo người đọc vào nội dung những câu chuyện kể để bạn đọc phân tích, luận bàn…và cùng đồng tình với người kể về những vấn đề được rút ra (in ở kỳ cuối cùng):
“Xem những đoạn trích trong quyển sách và quyển nhật ký của hai người mật thám Mỹ, thì chúng ta thấy rõ:
-Đế quốc Mỹ luôn âm mưu gây chiến…
Phong trào hoà bình thế giới ngày càng mạnh, đã làm cho âm mưu gây chiến của đế quốc Mỹ thất bại…” (Hồ Chí Minh, truyện và ký – Nxb Văn học, 1985, tr 174…187).
Những năm 1938, 1939 với bút danh Lin, P.C. Lin viết dưới danh nghĩa một nhà báo Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc viết một loạt bài báo có tên Thư từ Trung Quốc đăng trên báo Notre voix (Tiếng nói của chúng ta). Notre voix là tuần báo công khai bằng tiếng Pháp của Đảng xuất bản tại Hà Nội trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ 1936-1939. Đây là lời mở đầu của chùm bài viết:
“Là người Trung Quốc, nếu tôi nói đến những sự tàn bạo của người Nhật Bản mà tôi đã nhận thấy, thì người ta có thể cho rằng tôi đã nói quá. Bởi vậy, tôi chỉ thông báo với các bạn về những hành động tàn bạo của người Nhật Bản như những người nước ngoài đã nhận xét, bằng cách trích những đoạn trong cuốn: Ý nghĩa của chiến tranh - Những sự tàn bạo của người Nhật Bản ở Trung Quốc của H.J. Timpớclây, thông tín viên báo Người bảo vệ Mansextơ. Ngoài ra, tôi có thêm vào đó vài tin tức đăng trên các báo và vài mẩu chuyện do những nhân vật đáng tin cậy như các viên tư lệnh của Tân tứ quân và Bát lộ quân nhân dân cách mạng đã kể” (Tập 3, tr 91).
Tác giả dùng hình thức thư để kéo bạn đọc vào nội dung “những sự tàn bạo của người Nhật Bản”đối với người Trung Quốc. Tự nhận là người Trung Quốc nên để cho khách quan tác giả trích ra những đoạn có trong một cuốn sách đã xuất bản, đồng thời thêm vào đó những câu chuyện có thật. Như vậy có 3 căn cứ “bảo hiểm” cho tính khách quan, tính sinh động những câu chuyện được kể với bạn đọc. Một là, lời kể của một người Trung Quốc kể về sự tàn bạo của người Nhật đối với đồng bào mình. Đây là lời kể của một người trực tiếp chứng kiến các biến cố sự kiện nên đảm bảo sự trung thực, lời kể ấy hẳn nhiên phải mang quan điểm, tư tưởng, tình cảm nóng bỏng căm thù kẻ đã xâm lược đất nước mình, giết hại đồng bào mình. Hai là, hình thức thư vốn thường để dùng trong việc trao đổi tâm tình, trao đổi về những vấn đề có thật. Ba là, về nội dung cũng rất thật vì được rút ra từ cuốn sách và những câu chuyện của “những nhân vật đáng tin cậy”.
Trong bài báo đăng ngày 16/4/1939, sau khi liệt kê hàng loạt các con số nói về quân Nhật bị du kích Trung Quốc tiêu diệt, cuối bài tác giả đối thoại với bạn đọc:
“Xin lỗi các bạn vì tôi đã nhồi nhét các bạn với bấy nhiêu con số. Song là "những con số hùng hồn" như người Pháp vẫn nói. Chúng hùng hồn hơn bất cứ một sự mô tả nào khác mà tôi có thể làm được.
Các bạn sẽ nói: được, nhưng người Trung Quốc cũng bị tổn thất, những tổn thất lớn nữa là khác. Chúng tôi không hề giấu giếm điều đó. Chúng tôi xin thành thực nói với các bạn. Chúng tôi thành thật nói là khi bắt đầu chiến tranh, phía Trung Quốc có 5 người chết thì phía Nhật Bản có 1 người chết...
Các bạn sẽ nói: Cường điệu. Tin hay không, tuỳ ý các bạn. Nếu các bạn biết anh em du kích đã chiến đấu như thế nào, hẳn các bạn sẽ không chút lấy làm lạ về những con số trên đây. Trong một bức thư sau, có lẽ tôi sẽ có dịp nói với các bạn nhiều hơn về vấn đề này...
Hôm nay, tôi đã nói chuyện khá nhiều rồi. Vậy xin tạm biệt các bạn thân mến, và hẹn đến thư sau” (Tập 3, tr 107, 108).
Nếu ở phần dẫn chứng liệt kê các con số, như tác giả dẫn một phương ngôn của người Pháp là"những con số hùng hồn"đã chinh phục lý trí bạn đọc thì ở phần cuối này chinh phục bạn đọc bằng tình cảm “thành thật” của người viết với độc giả của mình. Ở các thư khác tác giả đều coi độc giả như những người bạn quen thân, ngoài cách thể hiện tình cảm chân thành qua cách xưng hô, đối thoại, tác giả dùng một cách kể chương hồi để mời gọi lôi cuốan bạn đọc:
“Sau khi đọc qua vài sự việc trên đây, chắc các bạn thừa hiểu vì sao bọn Nhật sau khi chiếm Hán Khẩu, Quảng Châu và Nam Dương thì không còn tiến được nữa”.
P.C. LIN - Báo Notre Voix, ngày 21-5-1939 (Tập 3, tr 120).
- “Thế thì bọn tờrốtxkít Trung Quốc đã hành động như thế nào? Rõ ràng các bạn sẽ nôn nóng, hỏi tôi như vậy.
- Nhưng, thưa các bạn thân mến, chỉ trong bức thư sau, tôi mới có thể trả lời các bạn được. Các bạn há chẳng đã dặn tôi viết những bài ngắn đó sao?
Mong sớm được gặp lại các bạn. P.C.LIN, Báo Notre Voix, ngày 23-6-1939” (Tập 3, tr 127).
“Trong thư sau, tôi sẽ kể để các bạn rõ về việc bọn tờrốtxkít Trung Quốc tiếp tục phản bội Tổ quốc của chúng như thế nào.
Chào thân ái
P.C.LIN, Báo Notre Voix, ngày 7-7-1939( Tập 3, tr 129).
“Đó là những mưu mô của bọn tờrốtxkít chống lại Bát lộ quân dân tộc cách mạng. Trong thư sau, tôi sẽ nói các bạn rõ về việc bọn phản bội đó đã dùng phương pháp đáng ghê tởm như thế nào để mưu làm tan rã các lực lượng chống Nhật khác”.
LIN, Báo Notre Voix, ngày 28-7-1939 và ngày 11-8-1939 (Tập 3, tr 137)…
Đây là cách kể vừa rất phương Đông cổ điển, quen thuộc lại rất phương Tây mới mẻ, hiện đại, không chỉ hấp dẫn đối với người Trung Quốc, Việt Nam mà còn lôi cuốn cả các độc giả đọc tiếng Pháp.
NTT