Tại sao văn chương Haruki Murakami lại hấp dẫn đến thế?

Thứ Bảy, 15/11/2025 00:54

. THÙY DƯƠNG
 

Độc giả Việt Nam đã từ lâu say mê với lối văn chương duy mĩ u sầu, ám ảnh của Kawabata, với mĩ học bi tráng của Mishima, với thẩm mĩ dục vọng trong văn Tanizaki… Nhưng tại sao Haruki Murakami, một nhà văn đương đại với ít dấu ấn văn hóa Nhật Bản truyền thống hơn các tên tuổi gạo cội, lại thu hút một sự quan tâm đặc biệt to lớn trong lòng độc giả đến thế?

Văn chương Murakami nảy nở trong bối cảnh tri thức hậu hiện đại, nơi những đại tự sự đang ngày càng phân rã, quá trình toàn cầu hóa văn hóa diễn ra mạnh mẽ, từ đó dẫn đến những biến động lớn trong bản thể con người. Trong không gian văn học hậu hiện đại, các tác phẩm của Murakami có thể được coi là những đại diện tiêu biểu, nơi những lằn ranh phân định giữa thực và ảo, chủ thể và khách thể bị xóa mờ. Văn Murakami mang tính chất lai ghép (hybridity), nơi diễn ngôn phương Đông và phương Tây, tự sự cá nhân và kí ức tập thể cùng va chạm và tương tác. Các tác phẩm như Rừng Na Uy, Kafka bên bờ biển, Người tình Sputnik... đồng thời phản chiếu cảm thức địa phương, cũng như có giá trị phản ánh những tâm thức chung mang tính phi biên giới của con người trong thế giới hậu hiện đại.

Một đặc điểm nổi bật trong các tác phẩm của Murakami là cấu trúc tự sự hậu hiện đại, trong đó có thể coi Kafka bên bờ biển là tiêu biểu. Tác phẩm gồm hai tuyến truyện của hai nhân vật chính: cậu bé Kafka Tamura và ông lão Nakata. Kafka bỏ nhà ra đi, mang trong mình lời nguyền về phức cảm Oedipus và một cơn khủng hoảng bản thể dữ dội. Con quạ - một thực thể thành hình từ cơn khủng hoảng bên trong Tamura - đã nói với cậu: “Và mày sẽ thực sự phải vượt qua được cơn bão tượng trưng, siêu hình, dữ dội ấy… Khi mày ra khỏi cơn bão, mày sẽ không còn là người đã dấn bước vào đó. Ý nghĩa của cơn bão là như thế đó.” Nakata trở nên mất trí do một biến cố siêu nhiên thuở nhỏ, có năng lực tâm linh kì lạ, và cũng bắt đầu bước đi trong một hành trình vô định. Ông nói với một chú mèo: “Dù thông minh hay đần độn, dù biết đọc hay không biết đọc, dù có bóng hay không có bóng, một khi đến cõi chết thì ai cũng phải về đất thôi… Khi lão chết, lão sẽ phải đến núi Quạ. Đó là điều không thể tránh khỏi.” Hai trục cốt truyện của hai nhân vật Tamura và Nakata mang tính độc lập, song lại có sự liên kết thông qua hệ thống biểu tượng của tác phẩm. Không thể xác định đâu là cốt truyện chính yếu, cả hai nhân vật đều là hai trung tâm trong tuyến truyện của mình. Văn phong trong thế giới của Tamura mang tính trừu tượng và hiện sinh, trong khi ngôn ngữ của tuyến truyện Nakata mộc mạc, trong sáng, mang âm hưởng cổ tích. Dù không trực tiếp giao cắt, nhưng hai tuyến phản chiếu lẫn nhau như hai dòng chảy tâm linh diễn ra đồng thời và tách biệt. Có thể coi Tamura và Nakata là hai biểu hiện của cùng một bản thể: Tamura mang trong mình nỗi ám ảnh về dục vọng, tội lỗi, về lời nguyền Oedipus luôn đeo bám cậu; trái lại, Nakata không có khả năng ý thức, nhưng có chức năng thực hiện hành động thay cho chính Tamura. Tamura là hiện thân của bản thể đầy đau khổ, dằn vặt, đang nỗ lực tìm kiếm bản thân, còn Nakata đại diện cho phần con người vô thức, không lời, âm thầm hành động. Hai nhân vật có nhiều điểm tương đồng trong hành trình của mình: đều có một khoảng trắng trong kí ức, đều có một ẩn số của định mệnh bắt buộc họ phải dấn thân và giải mã, đều cùng hướng về phía Nam một cách vô thức, đều có khả năng giao tiếp phi thực với các thực thể huyền bí. Những điểm tương đồng này trở thành những nhịp điệu giao thoa của hai tuyến truyện song song, từ đó mang lại sự thống nhất mang tính huyền ảo cho tác phẩm.

Bên cạnh cấu trúc trần thuật, tính hậu hiện đại của Kafka bên bờ biển còn được thể hiện dưới nhiều khía cạnh khác. Tác phẩm trình hiện không gian siêu thực của thực tại đứt gãy, nơi ranh giới giữa thực và ảo trở nên mờ nhòe. Không gian trong tác phẩm không mang tính vật lí đơn thuần, mà là những chiều không gian với những tầng huyền học bí ẩn. Thủ pháp hiện thực huyền ảo đưa nhân vật vào những hành trình mang tính chất mê cung, nhiều khi không thể xác định được là thực hay ảo: Nakata giết cha Kafka như thể bị một thế lực siêu nhiên điều khiển; Kafka Tamura nhìn thấy người cha đã chết trong một khu rừng; một cơn mưa cá đột nhiên dội xuống từ bầu trời; Kafka và Tamura có những cuộc trò chuyện kì dị với động vật. Các chi tiết đồng trình hiện một thực tại kì bí, phi logic, qua đó thể hiện góc tối và những nỗi ám ảnh đeo bám các nhân vật xuyên suốt hành trình đầy mê lộ. Ngoài ra, tác phẩm còn sở hữu ngôi kể bất định, nhân vật Tamura kể chuyện bằng ngôi thứ nhất, trong khi tuyến truyện của Nakata sử dụng ngôi kể thứ ba. Đặc điểm về ngôi kể này thể hiện tính đa thanh (polyphony) trong tác phẩm, khi điểm nhìn trần thuật biến chuyển linh hoạt, không mang tính cố định và xuyên suốt. Tác phẩm là một trường đối thoại không có trung tâm, không bị chi phối bởi một chân lí tuyệt đối, mà trong đó các nhân vật tự kể câu chuyện và bộc lộ căn tính của mình. Bên cạnh đó, Kafka bên bờ biển còn trình hiện dày đặc các yếu tố liên văn bản. Bi kịch của Kafka có thể được liên hệ trực tiếp tới Oedipus Rex của Sophocles; nhạc cổ điển và triết học phương Tây được lồng ghép xuyên suốt tác phẩm; bản chất hành trình của các nhân vật, và cái tên Kafka Tamura cũng thể hiện rõ nét sự ảnh hưởng từ văn chương Franz Kafka thông qua tính mê cung và tính chất “Kafkaesque”. Qua đó, tác phẩm lột tả sự phân rã của các đại tự sự truyền thống khi tập trung đi sâu vào những tiểu tự sự ngắt quãng, phi tuyến và mang đậm tính cá nhân.

Bên cạnh các vấn đề về thi pháp mà Kafka bên bờ biển có thể được coi là một tiêu biểu, các tác phẩm của Murakami thường khắc họa một tuýp nhân vật với nỗi hoài nghi hiện sinh thường trực. Rừng Na Uy, một trong các tác phẩm nổi tiếng nhất của Murakami, là một chứng lí điển hình cho góc độ bản thể học hiện sinh, về sự khủng hoảng ý nghĩa cũng như nỗi cô đơn của con người trong bối cảnh thế giới đương đại. Martin Heidegger cho rằng xét về bản chất, con người là sinh thể “bị ném” vào trong sự tồn tại của mình. Con người được sinh ra một cách ngẫu nhiên trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, được hiện thực gán cho những nhiệm vụ và trách nhiệm mà họ phải hoàn thành, do đó không có khả năng hoàn toàn kiểm soát số phận. Từ đây, có thể nhìn nhận nhân vật Toru Watanabe trong Rừng Na Uy như một con người bị số phận ném vào trong một hiện hữu đầy bi kịch. Toru là biểu hiện của một Dasein lặng lẽ, phải tự vật lộn để tìm cách thích nghi và chấp nhận hiện thực đầy khó khăn, khi tuổi trẻ của cậu gắn liền với những sang chấn sâu sắc từ cái chết của Kizuki, sự sụp đổ tinh thần nơi Naoko cùng với bóng tối luôn bủa vây, chỉ chờ chực để nuốt chửng tâm hồn cậu. Toru sống thời sinh viên của mình trong một bối cảnh xã hội phức tạp, với những phong trào sinh viên nổ ra liên tiếp, lối sống đô thị hóa cấp tiến đang trên đà bùng nổ, con người Nhật Bản phải đặt niềm tin vào phát triển kinh tế hiện đại như một sự cứu rỗi. Do đó, không gian mà Toru tồn tại trong Rừng Na Uy là một đô thị trống rỗng, vô cảm, phi bản sắc với các quán bar lặng lẽ, kí túc xá buồn tẻ, ga tàu vô danh. Toru không thể tìm thấy một nơi chốn ở Tokyo để neo tâm hồn mình, vì vậy cậu đắm chìm vào kí ức thời niên thiếu và vào những mơ tưởng âm thầm về Naoko để có thể kết nối với một phần bản thể hết sức mong manh vẫn còn chưa bị tha hóa bên trong mình. Toru không nổi loạn, không hành động lớn, chỉ hiện hữu một cách hết sức lặng lẽ như một sinh linh mang trong mình vết thương tinh thần sâu sắc.

J.Sartre có lẽ đã rất thấm thía khi nói: “Tha nhân là địa ngục.” Tha nhân chính là kẻ đứng ngoài nhìn vào cái tôi để gán cho nó một biểu hiện và hình hài nhất định. Sự quan sát, đánh giá của tha nhân làm tổn hại đến tự do hiện sinh của cái tôi. Thế nhưng, trong Rừng Na Uy, tha nhân không nhìn vào Toru để định nghĩa và phán xét cậu mà chỉ lặng lẽ biến mất. Bi kịch của Toru không đến từ tương tác mang tính đối thoại với tha nhân, mà đến sự một sự im lặng, trống rỗng, không phản hồi, một sự thiếu vắng tha nhân. Toru bị đặt vào trong bi kịch: Kizuki tự sát mà không để lại một lời nhắn; Naoko rút khỏi thế giới để sống trong bóng tối của chấn thương; Midori dù trẻ trung và sống động nhưng Toru vẫn không thể chạm đến. Trong đó, Toru không bị tha nhân phán xét hay vật hóa mà bị bỏ mặc lại trong thế giới không ai gọi tên cậu. Toru không có quyền đối thoại, chất vấn hay trách cứ; bi kịch của cậu chính là sự lặng câm và sự vắng bóng địa ngục. Tuy vắng mặt tha nhân, nhưng Kizuki và Naoko không hoàn toàn biến mất: họ trở thành những bóng ma luôn đeo đẳng trong tâm trí Toru. Cái chết của Kizuki luôn lởn vởn trong đầu Toru, Naoko sợ hãi rút lui bất cứ khi nào cậu lại gần, Midori mong muốn hiện diện nhưng vẫn không thể bù đắp và lấp đầy những đau thương. Murakami không xóa bỏ hoàn toàn tha nhân, mà thay vào đó triệt tiêu khả năng đối thoại thực sự giữa các nhân vật. Sau khi Naoko mất, Toru phải mang trách nhiệm lưu giữ, gánh vác kí ức của những người đã ra đi như một cách để duy trì sự tồn tại của họ. Chứng kiến những người thân yêu ra đi, Toru phải hứng chịu bóng tối dày đặc bủa vây mình, khiến cậu không thể yêu, quyết định hay trốn thoát khỏi cuộc sống của chính mình. Căn tính chấn thương của Toru là sự phản chiếu của bi kịch Kizuki và Naoko. Bản ngã Toru không thể tồn tại độc lập, mà là tàn dư của những gì đã mất.

Trong Đạo đức của sự mơ hồ, Simone de Beauvoir nhắc đến một ý khá thú vị rằng: Con người vượt thoát khỏi điều kiện tự nhiên của mình nhưng không vì thế mà giải thoát hoàn toàn khỏi nó. Từ góc độ triết học hiện sinh, bản chất của tồn tại con người mang tính lưỡng tính, vừa là chủ thể vừa là khách thể, vừa tự do vừa bị ném vào thế giới. Điều này có nghĩa rằng tồn tại con người luôn bao gồm những thái cực đối lập chứ không hoàn toàn thuộc về một cực nào. Toru cũng vậy, cậu tồn tại giữa lằn ranh của sự sống và cái chết, tự do và ràng buộc, sự hiện diện và sự biến mất. Tính mờ trong Rừng Na Uy còn được thể hiện trong sự nhập nhằng giữa các cặp nhị nguyên, khi sự sống và cái chết không được phân định rạch ròi. Mặc dù Kizuki chết đi nhưng vẫn còn tồn tại trong kí ức của những người sống, Naoko tuy còn sống nhưng cơn khủng hoảng tinh thần lại dẫn cô đến bóng tối chết chóc. Trong Rừng Na Uy, cái chết không tách biệt mà hòa vào với sự sống, khiến cho sự sống trở nên lặng câm, mờ đục và khắc khoải. Tình yêu trong tác phẩm cũng không mang tính cứu rỗi sáng chói, mà chỉ có chức năng xoa dịu đi nỗi đau để hiện thực trở nên dễ thở hơn phần nào. Mối quan hệ giữa Naoko và Toru có dịu dàng, có gần gũi thể xác, nhưng không bao giờ là một tình yêu trọn vẹn. Toru có nâng đỡ tinh thần Naoko được phần nào, nhưng tình yêu của cậu vẫn không thể kéo Naoko về phe sự sống mà chỉ trì hoãn cái chết tất yếu mà thôi. Tính mờ còn được thể hiện trong sự hòa lẫn và chồng xếp của hiện tại và những gì đã mất. Beauvoir, trong cuốn sách nói trên đã đặt ra một mối suy tư: “Giữa quá khứ - cái không còn và tương lai - cái chưa đến, thì khoảnh khắc hiện hữu của anh ta chỉ là hư vô.” Các nhân vật trong Rừng Na Uy phải hứng chịu một chấn thương tinh thần không thể hồi phục, kí ức quá khứ trở nên sống động đến mức nuốt chửng lấy thực tại, khiến cho họ không có khả năng hướng đến tương lai. Bản thân toàn bộ tác phẩm là một dòng hồi tưởng dài về quãng đời tuổi trẻ của nhân vật Toru, khi ấy 37 tuổi, khi anh tình cờ nghe được giai điệu quen thuộc của bài Norwegian Wood. Dường như tác phẩm muốn khẳng định rằng con người không thể hoàn toàn thoát khỏi sự đeo bám dai dẳng của kí ức, mà chỉ có thể kiềm chế ảnh hưởng của kí ức lên hiện thực mà thôi. Trong tác phẩm, Midori là hiện thân sống động nhất của sự sống, và sau cùng Toru đã chọn cô để cùng vượt qua những vết thương tinh thần như một sự thắng thế của sự sống trước cái chết bủa vây.

Bên cạnh các vấn đề bản thể học, một yếu tố khác khiến cho Murakami trở thành một hiện tượng văn chương toàn cầu chính là không gian văn hóa đại chúng mà các tác phẩm của ông kiến tạo. Nhìn từ góc độ phê bình văn hóa, chất liệu văn hóa đại chúng trong các tiểu thuyết Murakami có thể được coi là một sinh quyển ngôn ngữ hiện sinh để từ đó các nhân vật thành hình. Các nhân vật nghe nhạc cổ điển, rock, pop, jazz, đọc sách văn học phương Tây như một cách để thể hiện cá tính thông qua hành động thay vì sử dụng ngôn ngữ miêu tả trực tiếp. Những sinh hoạt, ăn uống của các nhân vật cũng được diễn tả một cách hết sức đời thường như bao con người của cuộc sống hiện đại, qua đó mang lại tính phổ quát và quen thuộc cho các nhân vật. Những quán bar, văn phòng, phòng nhạc, quán cà phê, tiệm đồ ăn nhanh, cửa hàng tiện lợi cũng thường xuyên xuất hiện và trở thành không gian khắc họa nỗi cô đơn hiện sinh của con người lạc lõng trong đời sống hiện đại tiện nghi. Trong văn chương Murakami, sự tiêu dùng là yếu tố khiến độc giả giao tiếp với tác phẩm thông qua các biểu tượng đại chúng. Với việc thường xuyên xuất hiện các yếu tố văn hóa đại chúng, có thể nhìn nhận các tác phẩm của Murakami như một hiện tượng hậu thuộc địa ngược. Mặc dù vốn là một nhà văn Nhật Bản, nhưng chất văn hóa Nhật Bản trong văn Murakami không có tính truyền thống đậm đặc mà mang tính hiện đại và toàn cầu. Ông không trình bày các vấn đề về sắc tộc, lịch sử, hay di sản truyền thống mà khắc họa một sự giao thoa văn hóa giữa Đông và Tây. Là một nhà văn Nhật Bản, nhưng ông không cố bảo vệ và quảng bá văn hóa truyền thống, cũng không chống lại diễn ngôn phương Tây, mà chấp nhận nó như một nền tảng văn hóa mặc định. Các tác phẩm của ông được viết bằng lối văn chương phương Tây ảnh hưởng từ Fitzgerald, Kafka, Salinger. Ông sử dụng ngôn ngữ toàn cầu hóa với các dấu ấn văn hóa đại chúng đậm đặc, nhưng vẫn sáng tác bằng cảm thức rất Nhật Bản, tập trung đi sâu vào sự đứt gãy, trầm lặng và mong manh của tồn tại con người. Với cốt cách Nhật Bản và những chất liệu văn hóa Tây phương, Murakami đã tạo ra một cơn sốt trên toàn thế giới. Tình hình dịch và xuất bản sách của Murakami diễn ra vô cùng sôi nổi. Các tác phẩm của ông được dịch ra hơn 50 thứ tiếng, kích thích nhiều thảo luận và quan điểm trái chiều nơi độc giả toàn cầu để đánh giá, tiếp nhận văn chương ông. Murakami ghi điểm trên văn đàn thế giới hiện đại như một nhà văn rất Mĩ nhưng cũng rất Nhật Bản, từ đó quảng bá đặc trưng tinh thần và văn hóa của xã hội Nhật Bản hiện đại đối với độc giả thế giới.

Có thể nói, việc đọc văn Murakami là một quá trình mang tính cá nhân. Các tác phẩm của ông trình hiện những vấn đề như sự cô đơn, tình yêu, cái chết, nỗi hư vô với những cấu trúc trần thuật phức tạp, phi tuyến, giọng văn mộc mạc, gần gũi, cùng với chất liệu văn hóa đại chúng quen thuộc. Tính mờ trong văn chương ông kích thích sự giải mã và đồng kiến tạo ý nghĩa từ phía người đọc, qua đó để lại những âm hưởng đa thanh trong tâm trí độc giả. Nhiều ý kiến trái chiều đã nảy sinh trong việc nhìn nhận hiện tượng văn chương Murakami. Liệu ông có thể được coi là một nhà văn Nhật Bản chính hiệu? Các tác phẩm của ông là văn chương đại chúng hay nghệ thuật? Tính hậu hiện đại trong văn ông có bị cực đoan hóa đến độ phi nhân văn? Dù câu trả lời cho các tranh luận này là gì, thì vẫn không thể phủ định độ phủ sóng và sức quyến rũ của văn chương Haruki Murakami.

T.D

VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Những người tôi gặp, những chuyện tôi viết

Những người tôi gặp, những chuyện tôi viết

Tôi từng hình dung viết văn là công việc của sự hư cấu, một hành trình phác dựng thế giới từ trí tưởng tượng, nơi nhà văn tự do tạo hình mọi thứ theo ý mình... (TRẦN THỊ TÚ NGỌC)

Nguyên mẫu của tôi là những người đã phất cao cờ hồng tháng Tám năm 1945

Nguyên mẫu của tôi là những người đã phất cao cờ hồng tháng Tám năm 1945

Là người đi dọc biên giới phía Bắc, tôi có thế mạnh khi hình dung, mở ra không gian của giai đoạn lịch sử đó... (PHẠM VÂN ANH)

Các nguyên mẫu trong "Trăng lên"

Các nguyên mẫu trong "Trăng lên"

Cụ đã kể cho tôi nghe về cuộc đời của mình. Cụ nguyên là một võ sư. Cuộc đời cụ có thể viết thành một thiên tiểu thuyết... (THẾ ĐỨC)

Từ những ánh sao đơn lẻ

Từ những ánh sao đơn lẻ

Năm 2023 với tôi được đánh dấu bằng những chuyến đi ý nghĩa, ý nghĩa với trải nghiệm của một người viết và ý nghĩa đối với chính việc viết... (NGUYỄN XUÂN THỦY)