Ngay từ tuổi thơ, được cha đưa lên Hà Nội học nhưng rồi chiến tranh giặc giã, cậu bé Tân đã trở lại làng Phù. Sự trở lại ấy đã như một định mệnh. Sống ở làng chỉ khoảng mười năm nhưng phần kí ức ám ảnh tuổi thơ đã theo suốt cuộc đời ông và là phần tài sản tinh thần lớn nhất, hằn vết trong kí ức người đàn ông Đất Tổ. Để rồi qua tuổi bảy mươi, mạch văn ở Nguyễn Trọng Tân mới tuôn trào xối xả, ông viết liên tục như một sự trả nợ đời, trả nợ vùng quê sinh ra. Số phận làng Phù của ông gắn chặt với số phận đất nước, với chiến tranh, thiên tai và các cuộc vận động xã hội kinh hoàng. Sự dồi dào, độc đáo về tư liệu, sự chín muồi trong trải nghiệm và sự tích lũy kĩ năng viết sau một đời làm báo, viết văn đã làm nên thành quả 5 tiểu thuyết lịch sử với dung lượng hàng nghìn trang được ghi nhận tại các giải thưởng văn học. Có người bảo, Nguyễn Trọng Tân “vác trên vai một cuộc đời khấp khểnh”, từ khi sinh ra ông có đến 3 giấy khai sinh, như mảnh đất làng Phù, Kẻ Gió mây trôi gió nổi bên bờ sông Thao của ông vậy. Nguyễn Trọng Tân chia sẻ, nổi chìm của làng buộc chặt đời ông, số phận của làng gắn chặt ngòi bút ông, để ông coi việc viết như một sự chiêu tuyết cho nơi mình đã gửi lại nhúm đời.

Nhà văn Nguyễn Trọng Tân
Thưa nhà văn Nguyễn Trọng Tân, xin chúc mừng ông với giải thưởng cao nhất cho tiểu thuyết “Phù sa máu” trong cuộc thi tiểu thuyết của Thời báo Văn học nghệ thuật. Như ông chia sẻ, “Phù sa máu” là văn bản “tiểu thuyết hóa” cuộc bể dâu mấy trăm năm của người Kẻ Gió. Ông có thể nói một chút về niềm vui này?
Phù sa máu là cuốn thứ 4 trong 5 tiểu thuyết tôi viết sau tuổi 70 được nhận giải thưởng: Thư về quá khứ, Thiên thu huyết lệ, Khúc ca người lính và Phù sa máu. Đó là niềm vui của người cầm bút. Nhưng vui hơn, Phù sa máu được đánh giá cao là sự ghi nhận của xã hội với những vấn đề xưa nay vốn vẫn bị coi là nhạy cảm, là kiêng kị.
Làng Phù Việt Trang đã xuất hiện trong nhiều tác phẩm của ông, từ “Thư về quá khứ” đến “Phù sa máu”, từ ngôi làng ấy nhiều vấn đề đã được khơi mở, những câu chuyện cụ thể đã vượt qua một không gian địa lí nhỏ bé để mở ra những chiều kích cho một áng tiểu thuyết. Đọc các tác phẩm của ông, tôi có liên tưởng đến triết lí sáng tác của Mạc Ngôn khi Mạc Ngôn nói rằng, ông ấy viết gì cũng không vượt qua cái làng Cao Mật của ông ấy. Phải chăng khi đủ tài năng thì chỉ cần một điểm tựa để nhà văn cất cánh. Ông nghĩ sao về điều này?
Làng Phù Việt Trang (còn gọi là làng Phù, Kẻ Gió) của tôi là cái cuống rốn nối những người con xa quê. Nó không chỉ là nơi tôi sinh ra mà còn là nguồn cội, là kí ức lịch sử, tâm linh. Rộng hơn là kho tàng văn hóa, là nội lực tiềm ẩn. Làng Phù là điểm tựa của ngòi bút tôi, phả vào trang viết tôi sự mầu mỡ của văn hóa làng với các phong tục và hủ tục ngàn đời. Dẫu cuộc sống phát triển hiện đại đến đâu, đô thị phát triển đến đâu thì gốc rễ của văn hóa Việt cũng vẫn là nền văn minh lúa nước, từ văn hóa làng mới có văn hóa cộng đồng. Nói theo quy tắc logic học, làng Việt là nội hàm của một ngoại diên vô cùng rộng lớn làm nên xã hội văn minh. Nhà văn viết về bất cứ vấn đề gì cũng phải được bảo hiểm bằng sợi dây văn hóa, mà sợi dây ấy bắt nguồn từ làng quê Việt. Như cánh diều no gió hát vi vút giữa tầng không giữ được sự cân bằng để chao lượn bởi sợi dây văn hóa. Tôi cũng như vậy, đất và người Phù Việt Trang xưa và làng Phù, Kẻ Gió ngày nay là chỗ tôi tựa vào để đứng dậy, để trang viết của tôi có tư tưởng, có hồn vía. Qua văn hóa làng để soi thấu số phận con người và văn hóa nhân loại.
Vâng! Có thể coi Làng Phù đã như một chiếc neo văn hoá, đã trở thành căn cước tiểu thuyết Nguyễn Trọng Tân? Ông có thể chia sẻ thêm về ngôi làng đặc biệt này, nó có gì khiến ông phải đắm chìm, trăn trở, lặn ngụp cả đời văn như vậy?
Làng Phù của tôi ngày nay là hậu duệ của ngôi làng cổ mang tên Phù Việt Trang có từ thời Hùng Vương dựng nước. Một ngôi làng tiêu biểu cho làng quê châu thổ sông Hồng. Làng có đủ di sản, lịch sử văn hóa với đình chùa miếu điện, cây đa, bến nước, cổng làng. Có lễ hội, trò vui mang đậm tính dân giã phồn thực… Nhưng số phận làng cũng chìm nổi, trầm luân như phận người. Mấy trăm năm trước làng Phù Việt Trang bị triệt hạ bởi một vụ án oan. 18 vị quan của làng dưới triều Hậu lê bị tru di tam tộc. Long mạch làng bị chém đứt bằng một xẻ đất “hình nhân bái tướng” triệt đường học hành và làm quan. Làng bị đốt, dân làng bị đuổi ra mép bãi lở. Làng mới mang tên Kẻ Gió. Hơn trăm năm sau sông Hồng lại liếm hết làng. Người dân phải vào trong đê xin đất thiên hạ lập làng mới là làng Phù ngày nay. Rồi Cải cách ruộng đất, rồi phá đình đập chùa, rồi liên miên chiến tranh… Tôi đã viết nhiều truyện ngắn, nhiều tiểu thuyết về làng Phù. Bởi đó là mạch ngầm văn hóa thao thiết chảy trong hồn vía tình cảm tôi, ngấm vào ngòi bút tôi. Tôi là một phần chìm nổi của làng Phù. Tôi sống cùng, vui cùng, đau cùng nỗi đau của làng. Tôi vịn vào làng để đứng dậy mỗi khi bế tắc, bất hạnh. Những gì tôi viết ra ưng ý nhất đều xuất phát từ số phận con người và mảnh đất làng Phù. Tôi đắm chìm, lặn ngụp, kí thác cả đời văn ở đó.

Tiểu thuyết Phù sa máu của nhà văn Nguyễn Trọng Tân.
Việc sử dụng nhiều ngôi kể trong “Phù sa máu” đã làm nên sự đa thanh và cả sự chắp nối, đứt đoạn khắc khoải trong bức tổng phổ về một ngôi làng lẫm liệt và bi ai. Không thể phủ nhận đây là một câu chuyện buồn, một nốt trầm trong lịch sử đương đại. Viết về những sai lầm, mất mát, đau đớn trong Cải cách ruộng đất đã có một số nhà văn đào sâu với những góc nhìn riêng cũng như đây luôn là vấn đề được coi là nhạy cảm, ông đã chọn cách tiếp cận thế nào để ra chất Nguyễn Trọng Tân trong những lằn ranh vốn dĩ rất mong manh?
Khác với Thư về quá khứ hay Trang gia phả viết bằng vôi, Phù sa máu là một tập hợp các câu chuyện về số phận người và đất làng Phù. Có câu chuyện do người sống kể. Có câu chuyện do người chết kể. Có câu chuyện do nấm mồ kể… Ở đây lần nữa tôi vẫn coi làng là cái bọc là cuống rốn nối với mỗi người con xa quê. Con cái có thể nhất thời bỏ làng ra đi, nhưng làng Phù không bao giờ quay lưng với giọt máu của mình, luôn mở rộng vòng tay đón các thành viên của làng trở về, dù đó là nắm xương khô lưu lạc. Và mỗi thành viên đó mang theo một câu chuyện về làng.
Nửa đầu cuốn sách tôi nói về Cải cách ruộng đất, vấn đề được coi là nhạy cảm, là kiêng kị. Tôi viết về Cải cách ruộng đất không phải để nói về sự đúng sai của cuộc vận động xã hội long trời lở đất này, mà là kể về số phận làng Phù, số phận của người làng trong đó có mẹ tôi. Mẹ tôi một người đàn bà nghèo, mù chữ được đôn lên thành phần cường hào, sau sửa sai xuống tới cố nông. Bà gánh đủ cả nỗi khổ của người nghèo và nỗi nhục của kẻ bóc lột. Tôi chiêu tuyết cho những người bị hàm oan. Tôi không đặt nặng việc mình tiếp cận câu chuyện Cải cách ruộng đất như thế nào mà chỉ kể lại những gì tôi chứng kiến, miêu tả một cách khách quan quá khứ như là một quá khứ. Hiện thực ấy không cần hư cấu, bịa tạc thêm giúp cho câu chuyện tôi kể, giọng điệu của tôi không lặp lại của ai.
Vâng! Tôi cũng đồng ý với quan điểm, nhìn nhận về những sai lầm của một thời nên tránh “vu vạ lịch sử”, nhưng sự “tôn trọng hiện thực” cũng có thể làm giảm đi phần nào chất văn chương cùng sự ám ảnh, khắc khoải cần có về một vùng đất, về những con người đại diện cho một giai đoạn của lịch sử…
“Vu vạ lịch sử” hay bóp méo lịch sử thì không còn là lịch sử nữa. Nhưng văn chương cũng không làm cái việc sao chép hay mô phỏng lịch sử. Văn chương mượn “cái đinh” sử liệu, treo vào đó tấm gương phản chiếu theo góc nhìn và quyền năng văn học cùng tấm lòng kẻ hậu sinh. Nhà văn nhìn nhận lịch sử ở nhiều chiều kích và tầng sâu cái nguyên nhân sâu xa làm nên hiện thực ấy. Họ đau và đi tận cùng nỗi đau của nhân vật, của vùng đất, soi chiếu cho hậu thế những gì đã xảy ra. Vì thế việc “tôn trọng hiện thực” không làm giảm đi sự ám ảnh, khắc khoải cần có về con người và vùng đất đại diện cho giai đoạn lịch sử mà nó làm cho hiện thực lịch sử trong văn chương lung linh hơn, dễ hiểu hơn và thật hơn.
Qua tiểu thuyết của ông, sau tất cả những chìm nổi, thăng trầm, đắng ngọt của làng Phù, mỗi người con của làng dù bám trụ lại hay tha phương tứ tán đều mang theo một mảnh hồn làng. Làng Phù như đại diện cho hàng nghìn ngôi làng khác trên dải đất hình chữ S. Ông nghĩ gì về sức mạnh văn hoá làng nơi mỗi miền quê trong sức mạnh dân tộc hôm qua và hôm nay?
Chúng ta đã nói về sức mạnh văn hóa Việt. Nó hình thành từ văn hóa làng xã, từ nền văn minh lúa nước. Điều này cần các nhà sử học, nhà văn luôn xác tín và giữ ngọn lửa cội nguồn cháy trong tâm khảm của mọi thế hệ người Việt. Bởi sức mạnh văn hóa làng xã là gốc rễ, là thứ làm nên sức mạnh dân tộc trong mọi thời đại. Làng Phù là hình ảnh đại diện cho hàng ngàn ngôi làng Việt đã làm nên sức mạnh dân tộc và phản ánh trong đó tính nhân loại, số phận con người nói chung. Quên điều này là mất gốc, mất chân đế, mất sức mạnh để vươn lên và hòa nhập với thế giới.

Nhà văn Nguyễn Trọng Tân (thứ hai từ trái qua) cùng các tác giả nhận Giải Nhì (không có Giải Nhất) cuộc thi tiểu thuyết của Thời báo Văn học nghệ thuật Việt Nam.
Trong các sáng tác của ông, rất dễ nhận thấy các phong tục tập quán, trò chơi dân gian, các lễ hội đậm tính phồn thực của vùng Đất Tổ đã được ông miêu tả kĩ lưỡng và hấp dẫn. Những nét văn hóa ấy, như nhiều vùng quê khác ngày nay, đã mai một, thậm chí không còn hiện tồn trong đời sống hiện đại. Ông nghĩ gì về điều này?
Làng Phù Việt Trang của tôi là một làng cổ nằm trong cố đô Phong Châu thời Hùng Vương dựng nước. Một vùng đất đậm đặc các di chỉ lịch sử. Còn lại đến ngày nay là các di chỉ: Làng Cả, Phùng Nguyên, Sơn Vi; làng nói khoác Văn Lang, Cổ Tiết… Vùng đất này đã tồn tại các lễ hội, nhiều trò vui mang ý nghĩa phồn thực như: Trò Trám (Linh tinh tình phộc); Sờ vú bắt lươn; Ăn mía nhả bã chấm cằm; Trông con, chăn cóc thổi cơm thi… Hầu hết các trò vui, lễ hội đó ngày nay đã mai một, chỉ còn giữ lại được trò Linh tinh tình phộc vào lúc giao thừa hằng năm. Nhưng trong tư duy, ngôn ngữ của người dân lối nói hài hước, phóng túng, giễu nhại vẫn như mạch ngầm thao thiết chảy, lưu dấu ở nhiều làng: “Làng Phù bắt được con lươn/ Thịt thì làm cỗ còn xương đẽo cầy”. “Sáng mưa, trưa nắng, chiều nồm/ Trời còn ở vậy nữa mồm thế gian”. Và không ngẫu nhiên đất này sinh ra một nhà thơ Bút Tre.
Làng quê Việt hôm nay đã trở thành các tiểu đô thị. Thói ăn, nết ở, tục lệ tốt đẹp bị mất dần. Nhiều phong tục, tập quán, trò vui xưa bị thất truyền. Đó là một mất mát lớn. Nó làm cho người trẻ không còn biết tới cội nguồn, biết tới những gì ông cha đã trải qua. Những tập tục văn hóa tốt đẹp của làng xã Việt không được tiếp nối sẽ rất dễ bị văn hóa ngoại lại xâm lấn. Hiện thực này đang diễn ra phổ biến ở các làng quê. Rất cần có hình thức lưu giữ lại để con cháu không đứt mạch nguồn với ông cha.
Tác phẩm của ông ôm trọn khoảng thời gian mấy trăm năm vật đổi sao dời, vắt qua những biến thiên thời thế, cần một tư duy tiểu thuyết đủ tầm và một chủ đề tư tưởng đủ lớn, cũng như việc ôm chứa những dài rộng trong một tiểu thuyết chưa bao giờ là điều dễ dàng, ông đã giải quyết vấn đề ấy như thế nào? Là một nhà văn có nhiều tiểu thuyết dung lượng lớn, khát vọng lớn, ông có thể chia sẻ trải nghiệm khi viết “Phù sa máu”, “Thư về quá khứ”, “Thiên thu huyết lệ”…
Có nhà văn bảo chặng đường sáng tác của tôi có những giai đoạn viết như lên đồng. Lúc chưa nghỉ hưu, phần lớn dành cho làm báo, thời gian và tư duy bị xé nát. Về hưu mới có thời gian viết. Đối với tôi sau tuổi 70 là giai đoạn “lên đồng” mạnh nhất và kéo dài nhất. Trong khoảng chục năm tôi viết mười tác phẩm, trong đó có 5 tiểu thuyết dày dặn cỡ 500 trang mỗi cuốn, phần lớn là tiểu thuyết về đề tài lịch sử. Trừ tiểu thuyết Thư về quá khứ viết trầy trật tới 18 năm tính từ khi khởi thảo, còn lại đều viết tầm 6 tháng một cuốn. Hai cuốn tôi mất nhiều công sức chuẩn bị tư liệu nhất là Thiên mệnh viết về hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ cách nay hơn hai trăm năm. Cuốn Thiên thu huyết lệ viết về nỗi oan khuất của Trạng nguyên đầu tiên nền khoa cử Đại Việt, thái sư Lê Văn Thịnh, thời nhà Lý cách nay một ngàn năm. Tư liệu về hai nhân vật này hoặc bị hủy hoại hết, hoặc đã quá lâu không còn lại gì. Tôi phải học lại Tam tự kinh, đọc các bộ Tứ thư ngũ kinh của Trung Hoa… Những việc như dựng trường thi, việc ra đề thi, cách chấm quyển, xướng lô và vinh quy bái tổ. Rồi ngôn ngữ, trang phục, lễ hội, tục cưới hỏi… của ngàn năm trước, tất tật phải tự mình nghĩ ra. Trong lúc viết tôi nhiều lần đem bản thảo đến thắp hương trước tượng hoàng đế Quang Trung, trước ban thờ vua Lý Nhân Tông và đền thờ Trạng nguyên Lê Văn Thịnh ở Bắc Ninh. Chỉ là lòng thành kính chứ không mê tín. Quả thật, đến bây giờ đôi lúc tôi vẫn tự hỏi sao mình viết được như thế. Cứ như có ai cầm tay mình viết hộ. Điều này khó giải thích nhưng là thật.
5 tiểu thuyết của Nguyễn Trọng Tân đều được ông viết sau tuổi bảy mươi. Trong khoảng chục năm tôi viết mười tác phẩm, trong đó có 5 tiểu thuyết dày dặn cỡ 500 trang mỗi cuốn, phần lớn là tiểu thuyết về đề tài lịch sử. |
Ông có quan sát các giải Nobel gần đây? Năm 2025 này Nobel văn học được trao cho nhà văn Hungary László Krasznahorkai, một nhà văn trầm mặc, khó đọc và đầy tính triết lí, cho thấy sự đề cao sức mạnh nội tại của ngôn ngữ hơn là những hào nhoáng bề ngoài. Về tiểu thuyết “Satantago” (Vũ điệu quỷ satan) của ông, có ý kiến nhận định rằng, “Satantango” không chỉ là một tiểu thuyết về một ngôi làng, mà là một ẩn dụ về toàn bộ nền văn minh của nhân loại. Ông nghĩ gì về sự gặp gỡ, song trùng giữa tính dân tộc và tính nhân loại trong tiểu thuyết nói chung?
Các giải Nobel văn học năm 2022 trao cho nhà văn Pháp, Annie Ernaux với tác phẩm Les Années; năm 2023 cho nhà văn Na Uy, Jon Fosse với tác phẩm Septology và năm 2024 cho nhà văn Hàn Quốc, Han Kang với một cụm tác phẩm The Vegetải an, Human, Acts… đều được đánh giá là có khả năng phản ánh toàn diện về con người và xã hội, ôm chứa cả tính dân tộc và tính thời đại. Tính dân tộc thể hiện qua tư duy, ngôn ngữ, phong tục, tâm lí mang tính đặc thù địa phương làm nên giọng điệu bản sắc riêng không thể trộn lẫn. Tính thời đại nằm ở tầng sâu hơn, đó là những vấn đề về bản thể, đạo đức, khát vọng và cả sự cô đơn rất điển hình của con người.
Tác phẩm Santa Tago của nhà văn Laszlo Kazna Hockai được trao giải năm 2025, đã dựng lên một ngôi làng thời hậu chủ nghĩa xã hội tan rã ở Đông Âu, là ẩn dụ cho nền văn minh nhân loại đang đi đến giới hạn của đạo đức và tinh thần. Cái làng nhỏ không có tên, nhưng nó mang được linh hồn của thế giới. Santa Tago đã đạt tới độ đậm dấu ấn dân tộc chạm tới nhân loại. Nó chứng minh tính song trùng giữa dân tộc và nhân loại gặp nhau. Một đặc điểm nổi bật khác là nhà văn Laszlo Kazna Hockai có phong cách sáng tác độc đáo, mang chiều sâu triết lí, phơi bày những tổn thương mất mát, sự cô đơn bế tắc và mong manh trong cuộc sống con người. Ngòi bút của ông mang màu sắc u ám, với phong cách chủ nghĩa phi lí. Sự gặp gỡ của những tác phẩm đoạt giải Nobel thể hiện tính dân tộc và tính nhân loại không đối lập mà hòa quyện. Đạt tới tính phổ quát qua cái riêng biệt.
Ông đánh giá thế nào về kích thước của nhà văn Việt Nam với thể loại tiểu thuyết?
Văn học Việt Nam xét trên lĩnh vực tiểu thuyết đã gặt hái được thành công. Giai đoạn nào cũng có những tác phẩm dựng được không gian và nhân vật của thời đại mà nó phản ánh, đạt tới cái hay của tư duy, ngôn ngữ phong tục và khát vọng của dân tộc. Nhưng có lẽ hạn chế lớn nhất là chưa đạt tới mức phổ quát mang tính nhân loại. Chưa trở thành bản sao thu nhỏ của thế giới.
Cám ơn những chia sẻ của ông và chúc ông có nhiều sức khoẻ để tiếp tục với con đường trường tiểu thuyết!
Nhà văn Nguyễn Trọng Tân sinh năm Đinh Hợi, 1947 (theo trí nhớ của mẹ ông) tại làng Phù Phong, xã Cao Xá, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Sau sắp xếp địa giới hành chính, làng của ông vẫn mang tên cũ nhưng giờ thuộc xã Bản Nguyên, tỉnh Phú Thọ. Ông nhập ngũ tháng 4 năm 1966. Tháng 12 năm 1976 sau khi xuất ngũ ông tiếp tục học và về làm giảng viên Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội trước khi chuyển sang viết văn, làm báo chuyên nghiệp. Trước khi nghỉ hưu ông là Phó trưởng ban thường trực, Ban Sáng tác, Hội Nhà văn Việt Nam, ông cũng được giao phụ trách ấn phẩm Văn học nước ngoài. Nguyễn Trọng Tân đã xuất bản 22 tác phẩm, trong đó có các tập truyện ngắn: Chuyện buồn thời con gái, Trang gia phả viết bằng vôi, Đò chiều; các tập bút kí: Mười năm, Ký ức không yên, Hoa đất; các tiểu thuyết: Quyền lực xám, Thư về quá khứ, Đa đoan cõi tạm, Thiên mệnh, Thiên thu huyết lệ, Phù sa máu, Khúc ca người lính. Riêng lĩnh vực tiểu thuyết ông đã đoạt một số giải thưởng văn học: Thư về quá khứ, Giải Nhì Giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam năm 2017; Thiên thu huyết lệ và Thư về quá khứ, Giải Nhất Giải thưởng Viện Văn hoá và Ngôn ngữ Phương Đông năm 2024; Khúc ca người lính, Giải Ba Giải thưởng VHNT Bộ Quốc phòng, năm 2024; Phù sa máu, Giải Nhì (không có giải nhất) cuộc thi tiểu thuyết Thời báo văn học nghệ thuật năm 2025. |
NGUYỄN XUÂN THỦY thực hiện
VNQD