Phú Quốc, những lần tôi đến

Thứ Năm, 06/11/2025 00:52

. HỒ KIÊN GIANG
 

Hơn hai mươi năm trước, tôi đi tàu cao tốc vừa đưa vào hoạt động thay thế tàu gỗ chòng chành vượt sáu mươi hai hải lí từ Rạch Giá ra Phú Quốc. Lần đó, tôi leo lên núi Ông Đinh - một trong chín mươi chín ngọn “núi chị đồi em” trên Đảo Ngọc - nhưng có người gọi núi Ông Lang hay Ông Phụng để chỉ ngọn núi cao một trăm bảy mươi sáu mét. Cho dù gọi bằng gì thì trong tiềm thức mọi người vẫn nguyên vẹn niềm tôn kính các bậc tiền nhân khai phá rừng rậm, mở đường tiếp tế lương thực, thực phẩm, nuôi chứa cán bộ cách mạng hoạt động trong những năm kháng chiến chống giặc ngoại xâm. Hơn thế nữa, gọi như vậy để tưởng nhớ đến những người có “tầm nhìn chiến lược” xây dựng căn cứ trên núi cao sẵn sàng nhả đạn xuống đầu thù. Đó là cách nói của cán bộ, chiến sĩ các chốt pháo thuộc Ban Chỉ huy Quân sự huyện Phú Quốc khi ngồi với tôi ngay trận địa trong lúc giải lao. Chuyện kể rằng, thời chống thực dân Pháp, một người đàn ông từ đất liền ra đây lập nghiệp đã xây dựng ngôi chùa trên núi nhưng thực chất là nuôi chứa cán bộ cách mạng. Khi ông qua đời, một người đàn ông khác tiếp tục làm công việc thầm lặng này suốt thời đánh Mĩ. Sau ngày đất nước thống nhất, một thầy thuốc là cháu chắt của hai ông lên đây phụng thờ hương khói, chăm sóc cây trái tươi tốt quanh năm.

Doanh trại của các anh là ngôi nhà lá mái tôn nghiêng nghiêng tạm bợ. Mùa mưa, nước từ trên núi đổ xuống tràn vào nhà, trên mái nước luồn qua những chỗ dột. Đôi khi các anh vừa quét dọn xong thì trời tiếp tục mưa. Có đêm trời mưa phải gom đồ đạc lại một góc tránh ướt. Mùa nắng thì ngột ngạt, nóng bức; các anh kéo nhau xuống núi tắm giặt, khi về mỗi người vác theo một can nước để hôm sau nấu ăn, rửa mặt. Ngày thì lên núi kéo pháo ra chiếm lĩnh trận địa, tập thuần thục thao tác và chuẩn xác cự li; đêm đốt cây đèn dầu leo lét, chui vào mùng ngồi tránh muỗi mà tâm sự. Ngày đó, Trung úy Trịnh Huy Hoàng, quê Thanh Hóa, sau khi tốt nghiệp Trường Sĩ quan Pháo binh năm 1998, anh vác ba lô, “cõng” luôn vợ con ra đảo. Hoàng vừa dựng xong căn nhà vách ván mái tôn trên nền đất được Ban Chỉ huy Quân sự huyện Phú Quốc cấp ngay dưới chân núi Ông Đinh bằng tiền tạm ứng lương trung đội trưởng. Từ nhà lên chốt đi bộ mất khoảng mười lăm phút, nhưng mỗi tuần anh chỉ về nhà một lần.

Vài năm sau, tôi có dịp ra Phú Quốc và lên chốt này. Bấy giờ, giữa lưng chừng núi, một ngôi nhà xây tường mới nguyên quét vôi trắng xóa rộng chừng bốn mươi mét vuông, chia thành ba gian. Gian lớn dùng họp hội, sinh hoạt, học tập và ăn nghỉ của chiến sĩ. Gian hẹp hơn là phòng làm việc của trung đội trưởng Hoàng. Cạnh đó, gian bếp nhỏ bé, xinh xắn như chiếc hộp. Anh Hoàng chia sẻ: “Điều kiện sống bây giờ tương đối hơn trước, ít ra là không sợ mưa dột và nước tràn vào nhà. Nhưng vì chưa có kinh phí hạ thế nên phải mua điện của dân bằng giá gấp sáu lần so với đất liền. Do đó, anh em xài rất tiết kiệm, chủ yếu chỉ thắp sáng và xem thời sự. Trung bình một tháng, tám anh em sử dụng mười hai kí điện. Anh thấy đó, trong phòng có ba vật dụng thì “cho phép” mở một thôi, hoặc đèn, hoặc quạt, hoặc tivi”.

Cũng theo lời anh Hoàng thì các chiến sĩ lần trước tôi gặp đã xuất ngũ về với gia đình ở những vùng quê khác nhau xây dựng cuộc sống; trong số ấy, có người cưới vợ và gửi thiệp hồng lên chốt báo tin vui. Mỗi năm, thế hệ sau tiếp bước lên đường nhập ngũ, tụ hội về đây chung sức gánh vác nhiệm vụ mà lớp đàn anh tin tưởng trao trọn. Dẫu các anh đều mang trong mình nỗi nhớ nhà, nhớ quê, nhớ gia đình, bạn bè nhưng không vì vậy mà xao lãng việc chung, bỏ quên nhiệm vụ. Có người gần hết niên hạn phục vụ trong Quân đội mà chưa có điều kiện về đất liền thăm nhà, thăm người thân; song, không một ai rời vị trí của mình. Bởi vì hàng vạn ánh đèn của ghe tàu đánh cá khơi xa mãi lấp lánh trên biển xanh không hề vụt tắt để mỗi sáng về nặng đầy tôm cá; vì điệu múa, tiếng ca rộn ràng dưới thị trấn Dương Đông bay vút lên trời xanh yên bình. Điều dễ nhận rõ nhất là cuộc sống của người lính chốt đơn giản từ vật chất đến tinh thần nhưng thẳm sâu trong các anh luôn có sức mạnh mãnh liệt là tinh thần đoàn kết cùng ý chí vượt mọi gian khó để giữ bầu trời cao trong và vùng biển rộng bao la. Vì vậy đã tạo thành một tập thể quân nhân trẻ, khỏe, quyết tâm khi đổ mồ hôi trên thao trường hay những đêm căng mắt bên tháp pháo lạnh căm giữa núi đồi và gió mặn xa khơi thổi về. Các anh hiểu rằng, một giây một phút bám trận địa là góp phần bảo vệ bình yên cuộc sống, giữ vùng biển mãi thắm xanh không gợn chút máu hồng.

*

*          *

Theo nhiều tài liệu thì xa xưa Phú Quốc chưa nhiều cây trái như bây giờ. Ông Khưu Văn Hạp, sinh năm 1844, đã chèo xuồng chở dừa và các cây lượng thực khác ra đảo. Các loại cây trồng phát triển xanh tươi nhờ khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp. Vậy là nhiều gia đình theo ông chọn đảo này lập nghiệp, tạo nên những hàng dừa bạt ngàn dọc dài bãi cát trắng theo dãy Hàm Ninh uốn lượn ven biển từ Bắc xuống Nam dài ba mươi ki lô mét và vườn cây trái sum xuê. Trên cao nhìn xuống, Phú Quốc giống con cá đang bơi, đầu hướng về phía Bắc như hướng về cội nguồn đất mẹ. Với vị trí xa đất liền, lại có 2/3 diện tích rừng núi và ít bị ảnh hưởng thiên tai, những năm 1942-1943, thực dân Pháp xúc tiến xây dựng một nhà lao lớn trên đảo Phú Quốc nhưng xây dựng chưa xong thì Cách mạng Tháng Tám thành công. Đến năm 1952-1953, nhà lao tiếp tục hình thành, giam giữ khoảng ba ngàn chiến sĩ cách mạng. Sau đó, chính quyền Mĩ - ngụy nâng cấp, mở rộng “Nhà lao Cây Dừa” trên diện tích bốn trăm héc ta, trở thành “địa ngục trần gian” nhằm giam giữ tù binh chiến tranh. Có thời điểm, nơi đây giam cầm bốn mươi ngàn tù binh Cộng sản, cùng bị tra tấn bằng bốn lăm hình thức cực kì dã man từ thời trung cổ: Chuồng cọp kẽm gai, lộn vỉ sắt, đánh bằng chày vồ, gậy bỏ cháo, roi cá đuối, gò thùng, chôn sống, luộc chín trong chảo nước sôi, đóng đinh vào người, treo cổ, bẻ răng, rút lưỡi, lấy móng tay móng chân, đóng đinh vào người, đục lấy xương bánh chè, rà đèn điện cho mù mắt, đổ nước xà bông sôi vào miệng, đốt miệng và hạ bộ..., giết chết khoảng bốn ngàn cán bộ, chiến sĩ cách mạng. Sau ngày đất nước thống nhất, chính quyền huyện đảo xây dựng tượng đài hình “nắm đấm” trên Đồi 100 thể hiện sự căm phẫn.

Năm 2008, tôi ra Phú Quốc và tới Đồi 100 thắp nhang. Đó là lúc Đội K92 thuộc Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Kiên Giang đang tiến hành tìm kiếm, cất bốc hài cốt liệt sĩ với quy mô lớn nhất trên tổng diện tích gần hai mươi hai ngàn mét vuông. Sau hơn bốn tháng làm việc khẩn trương tại các khu vực đánh dấu trên sơ đồ, bất chấp mưa nắng thất thường lúc giao thời giữa hai mùa mưa - nắng, cán bộ, chiến sĩ thực hiện nhiệm vụ chuyên trách cất bốc được một ngàn hai trăm linh sáu hài cốt liệt sĩ. Theo Đại tá Ngô Minh Chánh, Đội trưởng Đội K92, thì dù đã quen với công việc quy tập hài cốt liệt sĩ ở trong nước và Campuchia nhưng mỗi lần mở những tấm vải dù, vải bạt, bao bố... quấn xác tù binh cộng sản, các anh không khỏi đau đớn khi thấy thế hệ cha chú bị chết trong tư thế đứng hoặc ngồi xổm chứng tỏ bị địch chôn sống. Đau lòng hơn là khi thấy nhiều hộp sọ còn những chiếc đinh dài từ sáu đến tám cen ti mét...

Ngày ấy, mỗi khu vực sau khi đào tìm xong, các anh san lấp bằng phẳng và trồng lên đó những cây bằng lăng. Chỉ một ngày sau, trên thân loài cây này chồi lên mầm lá mới tiềm ẩn sức sống mãnh liệt. Có lẽ vì vậy mà trên mỗi hài cốt liệt sĩ trước khi an táng, ngoài cờ Tổ quốc khẳng định công lao của các anh hùng với quê hương còn có hoa bằng lăng tươi rói thể hiện sự tri ân, tình nghĩa thủy chung vẹn toàn giữa người đang sống với người đã khuất. Cuối năm ấy, lần đầu tiên Đại lễ cầu siêu xúc động diễn ra tại Nghĩa trang liệt sĩ huyện Phú Quốc với sự tham gia của các chiến sĩ từng bị giam cầm trong “Nhà lao Cây Dừa”, thân nhân liệt sĩ, lãnh đạo từ Trung ương đến địa phương và người dân huyện đảo cùng gần ba ngàn tăng ni Phật tử thuộc các cấp Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Nắng chiều tắt cũng là lúc ba ngàn ngọn nến thắp lên lung linh và kéo dài đến tận nửa đêm trong tiếng sóng biển vỗ bờ như bản hùng ca bất tận, trong tiếng cầu nguyện linh hồn liệt sĩ an lạc và siêu thoát, sự thành tâm mong các anh yên nghỉ đời đời trong pháp giới vô biên và sống mãi trong lòng dân tộc.

Cuối tháng 3/2023, tại Khu di tích quốc gia đặc biệt Trại giam Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang phối hợp với Ban Liên lạc cựu tù binh Phú Quốc - Việt Nam tổ chức kỉ niệm 50 năm “Chiến thắng trở về”. Trong khoảng hai ngàn cựu tù chính trị, tù binh, thân nhân các anh hùng liệt sĩ về dự có ông Nguyễn Dương Kế, Trưởng Ban Liên lạc truyền thống tù binh Trại giam Phú Quốc - Việt Nam, Thường trực Ban Liên lạc toàn quốc chiến sĩ cách mạng Việt Nam bị địch bắt tù đày. Kí ức của ông Kế không thể phai mờ với nỗi ám ảnh đớn đau về những ngày tháng bị giam cầm trên hòn đảo phía Tây Nam của Tổ quốc. Năm 1966, tròn 18 tuổi, người con của xã Thành Lợi, huyện Vụ Bản (Nam Định) Nguyễn Dương Kế tình nguyện nhập ngũ. Sau thời gian huấn luyện tại Thanh Hóa, ông Kế hành quân vào Nam chiến đấu trong đội hình Trung đoàn Đồng Nai 1, Phân khu Sài Gòn - Gia Định. Ngày 08/1/1969, trong khi thực hiện nhiệm vụ, ông Kế bị địch bắt đưa vào Trại giam Biên Hòa. Sau hai mươi ba ngày tra tấn không khai thác được gì, địch chuyển ông ra “địa ngục trần gian” bắt đầu hứng chịu các hình thức đánh đập dã man suốt hai năm mười một tháng mười lăm ngày tại Phân khu D5. Ngày 14/12/1971, ông Kế bị Tòa án binh Vùng 4 chiến thuật ở Cần Thơ tuyên tử hình vì tội diệt ác ở trại giam. Đêm 19/12, trước ngày địch đưa ra pháp trường, ông cùng bốn đồng đội dùng sắt khoét nền nhà giam, moi đất chui qua các lớp hàng rào thép gai, nguỵ trang bằng bùn vượt ngục. Không may mắn như ông Kế và trên hai trăm tù binh vượt ngục thành công, ông Nguyễn Văn Đồ, quê xã Kim Xuyên, huyện Kim Thành (Hải Dương) không trốn thoát, bị địch bắt và dùng kìm bẻ răng, dùng búa, chày vồ đánh đập. Dẫu vậy, so với hàng trăm tù binh khác bị chôn sống, ông Đồ hạnh phúc trở về trong hoà bình… Với các cựu tù binh Phú Quốc, để chấp nhận mọi cực hình tra tấn tàn độc phải biến chốn lao tù thành trường học cách mạng, phải nuôi giữ khát khao tự do và vững niềm tin chiến thắng: Sa tay giặc vẫn bền gan chiến đấu/ “Địa ngục trần gian” đêm ngày nung nấu/ Biết bao cực hình trắng trợn dã man/ Điện giật, dùi đâm, xăng đốt, bẻ răng/ Đinh đóng ống chân, cắt gân, ép ván/ Vĩ đại thay những con người cộng sản/ Thắng bạo tàn bằng khối óc trái tim… Từ trong gian khổ, bằng ý chí kiên trung, lời động viên nhau quyết không khuất phục đã thành hiện thực không chỉ nửa thế kỉ trước mà vẫn còn giá trị đến hôm nay tùy vào mỗi điều kiện, hoàn cảnh thực tế.

*

*          *

Năm năm trước tôi trở lại Phú Quốc, khi những cây mai trước nhà bung nụ báo hiệu mùa xuân về thì cán bộ, chiến sĩ các đơn vị trên Đảo Ngọc cũng háo hức chuẩn bị chào năm mới không thua kém đất liền. Trên đường đến Tiểu đoàn 860, Thượng tá Cao Văn Mạnh, Phó Chính ủy Lữ đoàn 950 (Quân khu 9) bảo rằng, nếu mùa xuân ở miền Bắc là những cơn gió lạnh đầu mùa, những đợt rét tái tê thì mùa xuân của miền Nam là những luồng gió heo may mát mẻ, những ánh nắng ấm áp bừng lên rực rỡ. Anh Mạnh am tường như vậy bởi quê anh ở Hà Nội và anh gắn bó với các đơn vị thuộc Quân khu 9 từ năm 1996, sau khi tốt nghiệp Trường Sĩ quan Lục quân 2. Với lính đảo, tín hiệu nhận biết xuân về cũng khác đất liền. Đó là khi thấy sương sớm lan tỏa trăng trắng trên 99 ngọn núi trải dài từ Bắc xuống Nam, là cảm giác se lạnh lúc tập thể dục sáng. Anh Mạnh nói vậy chắc không sai, vì anh đã gắn bó với Lữ đoàn 950 từ khi đơn vị này thành lập năm 2014 với cương vị Chủ nhiệm chính trị, nghĩa là sáu năm rồi và anh đoán định chính xác thời tiết trên đảo Phú Quốc!

Khi tín hiệu tết gần kề thì những người lính trên Đảo Ngọc bắt đầu sửa sang doanh trại, chăm chút hoa kiểng. Nếu mấy năm trước, cán bộ, chiến sĩ Lữ đoàn 950 đón tết trong ngôi nhà tạm bợ, nắng nóng và mưa tạt, thì mừng năm mới Canh Tý 2020, doanh trại được xây dựng kiên cố, cơ bản và chính quy. Trong phòng họp Đại đội 2, các chiến sĩ đang gắn kết từng nụ mai để hương vị mùa xuân ở đảo thêm đậm đà hương sắc. Điều này không chỉ thể hiện sự khéo tay, tỉ mỉ của người lính mà còn mang ý nghĩa về tinh thần đoàn kết của một tập thể và cầu mong năm mới nhiều thuận lợi. Binh nhất Huỳnh Thiên Chánh, chiến sĩ Tiểu đội Quân bưu, Tiểu đoàn 860 kể: “Năm 2019, sau khi học xong trung cấp dược tôi tình nguyện nhập ngũ và ra đảo tới giờ. Tôi nghe các anh đi trước kể tết trong Quân đội rất vui, không khí náo nhiệt lắm. Tôi cũng muốn thử một lần xem thế nào. Tôi chọn câu đối Lộc biếc, mai vàng, xuân hạnh phúc/ Đời vui, sức khoẻ, Tết an khang để trang trí hai bên bàn thờ Tổ quốc”. Các anh đi trước mà Chánh nói là Trung sĩ Trần Hữu Nghĩa, Tiểu đội trưởng Tiểu đội 5, Trung đội 5, Đại đội 2, Tiểu đoàn 860. Nghĩa chia sẻ: “Năm 2018 tôi tình nguyện nhập ngũ và được điều ra đảo. Tôi đã cùng anh em đón một mùa xuân trong Quân đội và có thể nói là không bao giờ quên được đối với tuổi trẻ của chúng tôi”. Nghĩa đã một lần trang trí gian phòng của đại đội đón tết nên có phần thạo hơn khi gắn những cánh hoa mai lên nhánh cây rừng. “Anh thấy hoa giả giống y chang hoa thiệt không? Vì hoa mai không ngọt ngào như hoa lài hay nồng nàn như hoa bưởi nhưng đặc tính sống của nó biểu trưng cho những đức tính tốt đẹp của con người. Dù mưa gió bão bùng thế nào mai vẫn vững vàng theo năm tháng, vẫn vươn lên đâm chồi nảy lộc, kiên trì và can đảm trước mọi khó khăn thử thách như những người lính đảo chúng tôi”. Cách ví von của Nghĩa làm các chiến sĩ vỗ tay rần rần, cười híp cả mắt.

Trò chuyện với Thượng úy Nguyễn Công Khanh, Chính trị viên Đại đội 2, Tiểu đoàn 860, được biết sau khi tốt nghiệp Trường Sĩ quan Chính trị năm 2014, người con của huyện Bình Minh (Vĩnh Long) được điều về làm giảng viên Trường Quân sự Quân khu 9 nhưng xin tình nguyện ra đảo công tác. Anh Khanh chia sẻ: “Nói cống hiến thì to lớn quá. Mình chỉ nghĩ còn trẻ nên đi nhiều nơi, nhất là vùng sâu vùng xa, biên giới, hải đảo để trải nghiệm và tích luỹ vốn sống. Mình là con trai duy nhất trong nhà nhưng hễ gần tết là ba má điện thoại dặn phải lo nhiệm vụ trước, nhất là cán bộ phải gương mẫu, cứ ở lại đón xuân với anh em, chừng nào rảnh thì xin về tranh thủ. Tính ra Xuân Canh Tý này là sáu năm mình đón tết ở đảo”. Anh Khanh còn “khoe” bây giờ điều kiện ra đảo rất thuận lợi, mỗi ngày có chục chuyến vận chuyển đường thuỷ và đường hàng không nên không khi tết chả khác gì đất liền. Hướng mắt lên mâm ngũ quả trên bàn thờ Tổ quốc của Đại đội 2, anh Khanh nói: “Anh thấy đó, cũng đầy đủ các loại trái cây như bàn thờ gia tiên trong mỗi gia đình Nam Bộ nhưng khác là dừa, đu đủ, xoài do đơn vị trồng. Những sản vật minh chứng sự kết tinh từ mồ hôi, công sức của người lính được chắt chiu qua từng mùa vụ, như biểu tượng cho thành quả tăng gia sản xuất của đơn vị trên vùng đất đá núi đồi Phú Quốc. Mặt khác, bên cạnh mâm ngũ quả không thể thiếu những đòn bánh tét của lính đảo dâng lên bàn thờ Tổ quốc để bày tỏ lòng thành kính với cội nguồn, tổ tiên, dâng Bác Hồ kính yêu để báo cáo một năm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Nhưng dù người lính có khéo tay đến mấy cũng phải nhờ đến bà con nơi mình đóng quân”.

Hôm sau, chúng tôi chứng kiến không khí rộn ràng, sôi nổi giữa cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 557 với các cô dì, chị em ở địa phương. Trong nhà ăn của tiểu đoàn, bàn ghế được xếp lại một góc nhường chỗ cho gần hai mươi phụ nữ hướng dẫn bộ đội gói bánh tét. Cô Đặng Thị Tuyết Mai, ngụ ấp Xóm Mới, xã Bãi Thơm, vừa cột bánh tét vừa nói với chiến sĩ bên cạnh: “Hồi đó giờ ở nhà con chưa gói bánh phải hôn con? Chắc chỉ xem thôi hén. Ừ, vậy bữa nay cô chỉ, rồi từ đây sắp tới con gói đòn bánh cho đẹp. Một đòn bánh con phải cột từ sáu đến tám vòng tròn đều nhau để lúc mình cắt ra không có khoanh bánh lớn bánh nhỏ. Con phải siết thật chặt, mình hấp bánh không bị vô nước”. Đúng vậy! Không chỉ siết chặt đòn bánh tét mà còn buộc chặt tình quân - dân như những năm tháng chiến tranh ác liệt, các mẹ các cô đã gói bánh tét vượt đồn bót mang vào chiến khu cho bộ đội ăn no đánh thắng quân xâm lược. Truyền thống quý báu ấy luôn được thế hệ cán bộ, chiến sĩ Lữ đoàn 950 gìn giữ và phát huy trên hòn đảo tiền tiêu này. “Thấy mấy đứa con không về sum họp với gia đình vì lo nhiệm vụ, thương lắm. Mồng một mồng hai tôi sẽ kêu chị em phụ nữ đến đây ăn tết với bộ đội cho vui. Hàng ngày tụi nó giúp mình rất nhiều việc như vệ sinh môi trường sạch sẽ, xây dựng cảnh quang thông thoáng, khám bệnh cấp thuốc cho bà con nghèo, chăm lo gia đình chính sách... Tôi tính kiếm vài đứa bộ đội bắt làm rể ấp Xóm Mới luôn”, cô Mai dứt lời, tiếng cười lẫn tiếng vỗ tay vang lên, niềm vui sáng ngời trong ánh mắt.

Không khí rộn ràng đó lan toả khắp doanh trại, mang theo hương vị bánh tét được bọc bên ngoài nhiều lớp lá chuối như người mẹ bọc lấy người con, như chị em cùng một mẹ đùm bọc lẫn nhau. Hơn thế nữa, nhìn đòn bánh gợi nhớ màu xanh của đồng quê yên bình, của xóm làng an vui, và mơ ước một năm mới thành đạt, hạnh phúc. Nhưng để mọi nhà có được hạnh phúc thì người lính đâu thể vui xuân mà quên nhiệm vụ. Dù ở cương vị, chức trách nào, các anh luôn lấy lợi ích chung để rèn bản lĩnh, lấy sự bình yên của người dân để thể hiện trách nhiệm của mình. Tôi chợt nhớ bài Mùa xuân quyết thắng trên báo Nhân Dân số 2147 ngày 030/2/1960 với bút danh Trần Lực, Bác Hồ viết: Tục ngữ có câu: “Suốt năm kế hoạch, định từ mùa xuân. Nghĩa là ngay từ đầu mùa xuân, nếu mọi công việc làm được tốt thì cả năm sẽ phát triển thuận và đạt kết quả cao. “Khắc ghi lời Bác, chúng tôi luôn xác định: Vui xuân mới nhưng luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu cao, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Vì vậy, bên cạnh duy trì nghiêm chế độ trực, bảo đảm quân số, thời gian nghỉ tết theo quy định, thì các phương án, kế hoạch cũng được điều chỉnh, bổ sung phù hợp. Ví như đặc thù của Tiểu đoàn 860 đứng chân trên huyện đảo Phú Quốc có nhiều rừng phòng hộ nên đơn vị đã chủ động làm tốt mọi công tác chuẩn bị về lực lượng, phương tiện, sẵn sàng cơ động để khắc phục và phòng chống cháy rừng trong dịp tết. Nhưng để làm được điều đó, đơn vị tăng cường công tác giáo dục, động viên tư tưởng bộ đội thông qua nhiều hình thức; trong đó tập trung vào các kế hoạch vui chơi, giải trí lành mạnh giúp chiến sĩ vơi đi nỗi nhớ nhà. Nhờ vậy, chiến sĩ thông suốt, yên tâm gắn bó với đơn vị, luôn sẵn sàng chiến đấu cao; nhất là các chiến sĩ nhập ngũ năm 2019 lần đầu tiên ăn tết trong môi trường Quân đội cũng rất phấn khởi, hào hứng chờ tết. Trong làn gió man mác se lạnh mang theo mùi vị mặn mòi của biển, chúng tôi luôn âm thầm chắc tay súng bảo vệ bình yên cuộc sống của nhân dân”, Thượng tá Cao Văn Mạnh nói vậy.

*

*          *

Phú Quốc, thành phố đảo đầu tiên và duy nhất của Việt Nam được công nhận đô thị loại một đầu năm 2025 đã và đang phát triển trở thành trung tâm dịch vụ, du lịch sinh thái chất lượng cao tầm cỡ quốc tế, kết nối với các trung tâm kinh tế lớn trong khu vực và thế giới. Theo thống kê năm 2024, thành phố Phú Quốc đón gần sáu triệu lượt du khách đến tham quan, du lịch (tăng bảy phảy một phần trăm so với năm 2023); trong đó có gần một triệu khách quốc tế. Tổng thu du lịch hơn hai mươi mốt nghìn một trăm bảy mươi tỉ đồng, chiếm trên tám mươi tư phần trăm tổng du lịch toàn tỉnh. Đến nay, Phú Quốc có hai trăm bảy mươi tư dự án đầu tư du lịch, chiếm tám mươi sáu phần trăm dự án đầu tư du lịch toàn tỉnh, tổng quy mô hơn chín nghìn bốn trăm tám mươi lăm héc ta và vốn đầu tư trên ba trăm tám mươi tám nghìn bốn trăm mười tỉ đồng... Những con số xán lạn này cho thấy Đảo Ngọc là điểm du lịch hấp dẫn với du khách quốc tế, góp phần quảng bá thương hiệu trên bản đồ du lịch thế giới. Đặc biệt, Phú Quốc vượt Bali trở thành hòn đảo tuyệt nhất Đông Nam Á và thứ nhì thế giới sau Maldives.

Ra Phú Quốc, tôi gặp các chiến sĩ dân quân tự vệ biển như Hồ Văn Hân, Lê Văn Vui, ngụ phường Dương Đông. Gia đình các anh đã mấy đời bám biển nhưng chưa ai có ý định bỏ tàu, gác lưới. Hình như cái màu xanh man mát của biển ngấm vào từng tế bào, từng thớ thịt nên ngẫu nhiên trở thành cuộc sống. Từ khi lực lượng dân quân biển thành lập gắn với các tổ, đội thuyền đánh bắt đến khi Hải đội Dân quân thường trực tỉnh Kiên Giang ra mắt năm 2021 thì ngư dân đã ý thức, trách nhiệm hơn trong bảo vệ chủ quyền biển đảo, không chỉ bảo vệ vùng biển cả thiêng liêng mà còn bảo vệ ngư trường, bảo vệ cuộc sống gia đình được cơm no, áo ấm. Xen kẽ những chuyến ra khơi các anh được tham gia huấn luyện quân sự, học tập chính trị, nhất là phương pháp xử lí các tình huống xảy ra trên biển. Mỗi lần rời bến, các anh vừa khai thác hải sản vừa theo dõi diễn biến tình hình trên biển để khi phát hiện tàu lạ có hành vi vi phạm chủ quyền thì lập tức truyền tín hiệu qua hệ thống thiết bị thông tin liên lạc, máy bộ đàm để cơ quan chức năng kịp thời xử lí. Không ai nhớ cụ thể mình đã báo tin bao nhiêu lần, chỉ biết rằng, mỗi một ngày ngư trường không xảy ra sự cố, tiềm ẩn phá hoại là các anh góp phần bảo vệ vùng biển bình yên.

Một điều gần như trở thành hiển nhiên là dù có hoặc không xảy ra giông tố hay bất trắc gì trên biển, mọi người vẫn đoàn kết một lòng hướng ra phía ấy, không chỉ bằng tình cảm chân thành mà bằng những việc làm cụ thể. Cuộc vận động nhắn tin “Tấm lưới nghĩa tình vì ngư dân Trường Sa, Hoàng Sa” để tiếp sức ngư dân vươn khơi bám biển từ năm 2013 là một minh chứng thiết thực nhất. Nó thể hiện tinh thần tương thân tương ái mấy ngàn đời của dân tộc vẫn vẹn nguyên trước vòng xoáy của xã hội, bão táp của thời cuộc; qua đó khẳng định mỗi người con dân nước Việt đều ý thức bảo vệ đất nước mình, đồng nghĩa với bảo vệ cuộc sống bình yên, hạnh phúc.

H.K.G

VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Những người tôi gặp, những chuyện tôi viết

Những người tôi gặp, những chuyện tôi viết

Tôi từng hình dung viết văn là công việc của sự hư cấu, một hành trình phác dựng thế giới từ trí tưởng tượng, nơi nhà văn tự do tạo hình mọi thứ theo ý mình... (TRẦN THỊ TÚ NGỌC)

Nguyên mẫu của tôi là những người đã phất cao cờ hồng tháng Tám năm 1945

Nguyên mẫu của tôi là những người đã phất cao cờ hồng tháng Tám năm 1945

Là người đi dọc biên giới phía Bắc, tôi có thế mạnh khi hình dung, mở ra không gian của giai đoạn lịch sử đó... (PHẠM VÂN ANH)

Các nguyên mẫu trong "Trăng lên"

Các nguyên mẫu trong "Trăng lên"

Cụ đã kể cho tôi nghe về cuộc đời của mình. Cụ nguyên là một võ sư. Cuộc đời cụ có thể viết thành một thiên tiểu thuyết... (THẾ ĐỨC)

Từ những ánh sao đơn lẻ

Từ những ánh sao đơn lẻ

Năm 2023 với tôi được đánh dấu bằng những chuyến đi ý nghĩa, ý nghĩa với trải nghiệm của một người viết và ý nghĩa đối với chính việc viết... (NGUYỄN XUÂN THỦY)