Suối mơ

Thứ Năm, 02/10/2025 14:32

. PHAN XUÂN LUẬT
 

1.

Bà Hồng không ngủ được. Chiều mai, cuộc hội ngộ đặc biệt đợi chờ bấy lâu nay sẽ diễn ra. Gia đình thằng Hào - con trai bà từ thành phố Hồ Chí Minh về; bà Chinh, mẹ nuôi thằng Hào từ Nha Trang ra; và ông Dong-hyun, từ Hàn Quốc sang. Xoay trở mãi vẫn không thể chợp mắt, bà dậy lấy tấm ảnh Dong-hyun ra ngắm… Khuôn mặt này, hơn ba mươi năm trước, trong một hoàn cảnh đặc biệt…

Minh hoạ: Thành Chương

Năm đó Hồng mới hai mươi tuổi, da ngăm ngăm, khuôn mặt tròn, răng khểnh, má lúm đồng tiền duyên lắm. Trong khu rừng trên căn cứ, hình ảnh cô văn thư mới từ đồng bằng lên líu la líu lo khiến không ít người mê, trong đó có cả một anh cán bộ là cấp trên của cô. Vậy mà Hồng không để ý đến ai, ngoài anh lính tuyên huấn của tỉnh đội tên Lê Trường, học sinh tú tài toàn phần mới nhảy núi trước cô vài năm. Cứ quãng nửa tháng anh lại đem công văn sang nhờ đánh máy. Tài đánh máy của Hồng đã trở thành giai thoại. Mười ngón tay búp măng lướt trên phím bàn máy như nghệ sĩ lướt trên đàn piano, và vừa lướt phím vừa trò chuyện với nhiều người mà vẫn không sai một lỗi. Anh chàng lính tuyên huấn từng là thành viên nhóm nhạc trường trung học phổ thông ở thị xã lần đầu thấy thế thì ngơ ngẩn. Rừng chiều vang tiếng tí tách của bàn phím, tiếng thì thào của gió và tiếng róc rách của con suối chảy ngang lưng đồi. Bất giác anh lính trẻ rút ống sáo trúc dắt ở lưng ra thổi bài Suối mơ. Tiếng sáo khoan thai trầm bổng. Hồng ngừng tay quay lại. Một khuôn mặt trẻ măng, thư sinh và mái tóc bồng bềnh trôi theo nhịp sáo. Anh lính tuyên huấn cũng ngừng thổi. Họ đăm đắm nhìn nhau. Họ đã đến với nhau từ một buổi chiều như thế.

Mấy tháng sau, một đám cưới giản dị được tổ chức giữa rừng già. Gần năm sau thằng Hào được sinh ra trong một trạm y tế quân dân y. Nửa năm sau khi Hồng sinh thằng Hào thì Trường nhận lệnh đi công tác. Được nghỉ ở nhà một ngày để chuẩn bị, thổi sáo cho con nghe. Lâu lâu, Trường lại thơm má, nựng, làm thằng bé cười sằng sặc. Anh lật đi lật lại tấm khăn có hàng chữ “Phương Hào - con yêu của ba mẹ!” ngắm nghía. Đến bữa ăn, anh cũng giành ôm ấp con chứ không để vợ bế như mọi hôm. Cả ngày hôm đó Hồng thấp thỏm đứng ngồi không yên. Tối, cô bồng con nhìn theo dáng chồng hút nhòa vào khu rừng, bỗng thấy tim mình đau nhói… Linh tính của cô đã đúng. Mấy hôm sau Hồng nhận tin chồng hi sinh vì lọt vào ổ phục kích của lính Nam Hàn.

Sau những ngày đớn đau vật vã, Hồng gượng dậy công tác, nuôi con. Hai mẹ con sống giữa sự bao bọc chở che của anh em đồng đội.

Sau Tết Mậu Thân, địch càn quét rất dữ, các cơ quan tỉnh phải di chuyển về nhiều nơi. Cơ quan Hồng lùi trở lại vùng núi một huyện vừa có rừng vừa có biển. Cả ngày hôm trước, pháo địch tập trung bắn nhiều vào vùng này. Và sáng hôm sau, bầy trực thăng chở theo hàng trăm lính Nam Hàn đổ quân xuống các quả đồi, tỏa ra lùng sục. Đây là vùng Mĩ thả nhiều chất phát quang nên cây rừng thưa thớt, rất dễ bị lộ. Lãnh đạo cơ quan chụm đầu thầm thì bàn cách thoát khỏi vòng vây. Phương án đặt ra, cơ quan sẽ đi thành hàng một, len lỏi qua các lùm cây thoát ra với điều kiện tuyệt đối không gây ra tiếng động mạnh. Việc này đối với người lớn thì dễ. Nhưng còn trẻ con… Mọi người ái ngại nhìn Hồng. Trên lưng cô là máy chữ và nhiều tài liệu quan trọng, trước ngực ôm thằng Hào vẫn ngủ say. Tình huống xấu nhất được đặt ra, nếu bất chợt thằng bé thức dậy, cất tiếng khóc thì mấy chục cán bộ nhân viên cơ quan rơi vào tay địch. Mọi người lo lắng căng thẳng, không ai nói gì nhưng tất cả đều đổ dồn ánh mắt về phía Hồng, vừa như động viên vừa như cầu khẩn.

Vòng vây đang từ từ khép chặt. Đã nghe rõ tiếng lính Hàn lô cha lô chô. Không thể chần chừ thêm nữa. Mắt Hồng nhoà đi. Cô nhẹ nhàng đặt con vào một gộp đá và quắc ánh mắt quyệt liệt ra hiệu cho mọi người thoát nhanh khỏi vùng nguy hiểm…

Khi đoàn người đi được vài chục mét thì nghe tiếng thằng Hào khóc váng. Hồng khoát tay ra hiệu mọi người cứ đi rồi một mình lộn lại. Núp trong lùm cây, Hồng run lên khi thấy một tên lính Hàn đang chĩa súng vào thằng Hào chuẩn bị bóp cò. Chợt một tên lính khác bước tới chắn ngang họng súng và quờ tay ôm chặt thằng bé vào lòng. Đó là một người lính tầm thước, khuôn mặt bầu bầu, trẻ măng, chắc chưa đến hai mươi. Người lính trẻ nói gì đó với một người khác, trông cứng tuổi, có lẽ là cấp chỉ huy, ngó bộ căng thẳng. Một lúc người chỉ huy khẽ gật đầu nhường lối cho người lính trẻ ẵm đứa bé mang tới chỗ trực thăng. Hồng trông rõ tất cả, ruột như đứt ra từng khúc. Trực thăng đã bay rồi mà tiếng khóc của thằng Hào vẫn dội vào lòng cô đau nhói.

 

2.

Trên chuyến bay từ Hàn Quốc sang Việt Nam, nhiều người đã mệt mỏi ngủ say nhưng ông Dong-hyun thì thức trọn. Vợ ông đã mất, con trai muốn tháp tùng nhưng ông từ chối. Ông đi một mình để sống riêng với những kỉ niệm thời chiến trận. Ông nhắm mắt, kí ức ào ạt đổ về…

Một ngày đầu năm 1953, chiến tranh Triều Tiên đang vào giai đoạn ác liệt nhất. Làng bị ném bom. Một quả bom rơi ngay cạnh hầm trú ẩn. Cả nhà, chỉ mình Dong-hyun sống sót. Hình ảnh xác đứa em mới mấy tháng tuổi miệng còn chưa khép, tay vẫn bám chặt thi thể mẹ luôn hiện về trong giấc ngủ Dong-hyun.

Dong-hyun được người trong làng thay nhau nuôi nấng, sau chiến tranh, được gửi vào trại mồ côi. Hàn Quốc sau chiến tranh nghèo lắm. Cậu sống bữa đói bữa no, học hành lõm bõm, đến năm mười tám tuổi vào quân đội và hơn năm sau sang Việt Nam.

Trận đụng độ đầu tiên với Việt Cộng là một đêm mùa hạ tối trời, trung đội của Dong-hyun đi phục kích. Khoảng nửa đêm, từ bìa rừng, một tốp hơn chục người theo lối mòn đi xuống. Dong-hyun nín thở. Người chỉ huy ra lệnh nổ súng. Dong-hyun giật mình, vô thức chĩa súng lên cao xả hết đạn. Nhưng đồng đội của Dong-hyun thì không thế. Những loạt đạn dồn dập, tốp người trước mắt đổ gục gần hết, chỉ có mấy người lăn mình vùng dậy chạy thoát.

Dong-hyun ra khỏi chỗ phục đi đến bấm đèn pin rọi vào những xác chết, người bỗng run lên trước những khuôn mặt hiền lành rất trẻ. Có một khuôn mặt rất thư sinh với mái tóc loăn xoăn bồng bềnh bết máu. Anh lật người lính lên, ngạc nhiên thấy dắt sau lưng có một ống sáo trúc. “Đây mà là vi- xi?” Dong-hyun băn khoăn tự hỏi, rồi bất giác rút ống sáo cho vào ba lô. Cái ống sáo Dong-hyun vẫn giữ đến tận bây giờ.

Trận đánh thứ hai Dong-hyun tham gia vào buổi sáng đầu thu năm 1968. Hôm đó, tiểu đoàn thuộc sư đoàn Bạch Mã của anh được lệnh càn quét một vùng đồi nghi có Việt Cộng. Trực thăng đáp xuống, đoàn quân tiến vào khu rừng một đoạn, chợt có tiếng trẻ con khóc. Dong-hyun vội chạy đến. Một người lính đang giương súng lên. Không kịp suy nghĩ, Dong-hyun nhảy bổ tới lấy thân chắn nòng súng. Thời khắc ấy anh bỗng nghe thấy tiếng thét của em trai. Tiếng thét bàng hoàng, đau đớn rồi đột ngột tắt lịm. Anh bồng đứa bé vào lòng, thấy nó thật đẹp. Ừ, tất cả trẻ em đều đẹp, đều giống nhau. Anh nói với viên chỉ huy, giọng rất nhẹ, như cầu khẩn: “Nó chỉ là một đứa trẻ, nó không có tội, nó cần được sống!” Khuôn mặt viên chỉ huy ban đầu căng thẳng, nhưng rồi dần dịu lại.

Đơn vị Dong-hyun đóng quân cạnh một làng chài ven biển. Sau những cuộc hành quân càn quét, phục kích và thảm sát, chứng kiến đối phương và cả dân thường chết, lính Hàn cũng không ít người bỏ mạng nơi đất khách, Dong-hyun rơi vào trạng thái u uất. May mà có đứa bé để anh chăm sóc.

Đứa bé với anh như là sự cứu rỗi. Nhìn nó, anh cảm thấy như em mình sống lại. Nhưng thằng bé oặt oẹo cứ khóc ngằn ngặt, mà anh thì vụng về không biết cho ăn, không biết thay quần thay áo. Sữa hộp thì không thiếu, nhưng thằng bé cứ nhè ra. Nó thèm sữa mẹ, nhớ hơi mẹ thì phải.

Khi anh đang lúng túng không biết sẽ làm gì với đứa bé thì chiều hôm đó thằng bạn thân cùng tiểu đội vỗ vai: “Mày đưa cho cô giáo trong làng nuôi đi, cái cô giáo mày vẫn sang nhờ dạy tiếng Việt ấy!” Mắt Dong-hyun sáng lên. Tối hôm đó, anh ẵm thằng bé sang trường tiểu học. Anh ấp úng trình bày chưa hết câu Chinh đã hiểu và đồng ý ngay.

Từ hôm đó ngày nào Dong-hyun cũng sang chơi với đứa bé, học tiếng Việt và nghe cô giáo ru con. Những bài hát ru thật hay làm Dong-hyun nhớ đến lời ru của mẹ, nhớ làng xóm mình xưa, một làng nghèo ven biển.

“Ba tháng biết lẫy, bảy tháng biết bò, chín tháng lò dò biết đi”, cô giáo dạy câu tục ngữ Việt, anh thích lắm, cứ nhìn thằng bé mà đọc hoài. Rồi nó biết bò, lẫm chẫm biết đi, ngọng nghịu gọi má, gọi ba. Nghe nó gọi ba, trong Dong-hyun bỗng trào lên một cảm xúc kì lạ. Ban đầu anh coi nó như đứa em tội nghiệp của mình, giờ thì anh thấy nó như con mình thật sự.

Thế nhưng chỉ nửa năm sau, một chiều đơn vị Dong-hyun đột ngột được lệnh chuẩn bị di chuyển ban đêm bằng trực thăng. Anh vội chạy sang đưa mấy lon sữa, ẵm thằng bé hôn lấy hôn để và chào tạm biệt Chinh. Hôm đó trời lạnh, Chinh choàng thằng bé bằng tấm khăn có thêu hàng chữ “Phương Hào - con yêu của ba mẹ!” Dong-hyun tần ngần nhìn tấm khăn, băn khoăn không biết ba mẹ ruột nó là ai, có còn sống không, liệu có một ngày nào đó nó được trở về với ba mẹ?

Đó là lần gặp cuối cùng của Dong-hyun với Chinh và Phương Hào. Tới tận bây giờ anh vẫn nhớ hình ảnh cô giáo ẵm thằng bé đứng nhìn theo cho đến khi anh khuất vào rừng dừa cuối làng. Ngay sau lần di chuyển tham gia vào một trận đánh lớn đêm đó, anh bị thương và được đưa về nước.

 

3.

Trên xe Hào cứ bần thần mãi. Từ bức ảnh mẹ nuôi đưa cho, anh đã nhờ Hội hữu nghị Việt - Hàn kết nối và rất may đã tìm được người mà lâu nay anh vẫn thầm mang ơn. Lần này anh cùng vợ con đi máy bay từ thành phố Hồ Chí Minh ra Nha Trang, ghé qua nhà mẹ nuôi đón bà cùng về nhà mẹ đẻ với mình để dự cuộc tái ngộ đặc biệt.

Ghế bên, bà Chinh nhìn đắm ra ngoài kính xe. Bà nhớ, sau khi đơn vị lính Nam Hàn rút đi, bà vẫn ngóng chờ Dong-hyun trở lại, nhưng chờ mãi, chờ mãi đến ngày giải phóng vẫn bặt vô âm tín...

Có lúc Chinh nghĩ, hay là người lính ấy đã chết. Còn cha mẹ đẻ thằng bé, họ là ai, có còn sống không. Chinh đã xem thằng bé như con mình dứt ruột đẻ ra. Trong thâm tâm Chinh lo sợ một ngày cha mẹ nó tìm đến, nhưng rồi nghĩ cha mẹ nó đã bao năm sống trong khổ sở vì mất con, cô lại mong một ngày không xa họ sẽ tìm đến.

Một ngày hè sau giải phóng hơn năm, có người đàn ông chừng ba mươi tuổi gõ cửa nhà Chinh. Anh giới thiệu tên Trung, là cán bộ mới chuyển về huyện này công tác. Sau nhiều lần hỏi thăm, anh mới tìm được nhà Chinh để xin lại thằng bé. Trung nói ba thằng bé là bạn thân của anh, hi sinh khi thằng bé mới nửa năm tuổi. Mẹ nó là cán bộ văn phòng cơ quan huyện, suốt tám năm nay vẫn đi tìm con, đã hỏi thăm nhiều nơi mà vẫn chưa ra tung tích. Ban đầu Chinh còn phân vân. Nhưng khi anh kể về chi tiết đứa bé được bọc trong tấm khăn có thêu dòng chữ “Phương Hào - con yêu của ba mẹ” thì Chinh không nghi ngờ gì nữa. Cô gọi thằng Hào về. Vừa thấy nó Trung đã sững sờ thốt lên:

“Con bạn tui đây chớ ai, nó giống thằng cha như đúc!”

Ngay chiều hôm ấy, Trung mượn xe máy chạy về báo tin cho Hồng. Sáng sớm hôm sau, Hồng và Trung ra gặp mẹ con Chinh. Vừa trông thấy thằng Hào Hồng liền lao vào ôm chầm lấy, nghẹn ngào khóc gọi con. Thằng Hào ngỡ ngàng đứng im một lúc rồi sà vào lòng Hồng khóc và bối rối gọi mẹ.

Hồng ở lại nhà Chinh mấy ngày để làm quen với thằng Hào rồi xin phép đưa con về. Nhìn hai mẹ con khuất dần vào rừng dừa cuối làng, Chinh thẫn thờ, mắt nhòe đi, gió biển lồng lộng thổi tung xóa những dấu chân trên cát. Sự hẫng hụt quá lớn khiến Chinh khuỵu xuống. Kí ức buồn vui từ ngày Chinh nhận nuôi thằng Hào tới tấp ùa về. Nhiều khi đang trong tiết dạy, chợt thấy có cảm giác không yên tâm cô vội xin phép học sinh chạy về căn phòng nhỏ ở góc trường ôm con. Có lần nó sốt li bì trong đêm, làm cách gì cũng không hạ nhiệt được, cô phải đạp xe trên chục cây số đường cát, đèo nó lên phòng mạch trên thị trấn. Vừa đạp, cô vừa nghĩ trong lo sợ. Lỡ nó mệnh hệ gì làm sao cô sống nổi. Tự sâu thẳm, cô đã coi nó là máu thịt của mình. Khi làm giấy khai sinh cho nó, cô đã lấy họ của cô. Trần Phương Hào. Nhớ cái chiều Chinh ôm nó đứng nhìn Dong-hyun xa khuất, dù có cảm giác chống chếnh một chút nhưng cô lấy lại thăng bằng được ngay. Còn hôm nay, dù cả Hồng và thằng Hào đã nói sẽ thường xuyên trở về thăm nhưng Chinh vẫn có cảm giác một cái gì quý giá thiêng liêng đã tuột khỏi tay, mãi mãi. Cuối năm ấy Chinh xin chuyển về dạy ở quê nhà Nha Trang. Cha đã mất, mẹ cần nơi nương tựa. Nhưng nỗi nhớ thằng Hào vẫn luôn canh cánh. Ngay cả đến khi Chinh lấy chồng sinh con nỗi nhớ thằng Hào vẫn hiển hiện. Chinh ngỏ ý với chồng coi thằng Hào là con cả, những đứa con của vợ chồng Chinh sẽ phải gọi thằng Hào là anh hai. Chồng Chinh là bộ đội hải quân quê Ba Vì - Hà Tây gật đầu cười vui vẻ: “Nhất trí! Chẳng gì bằng đông con nhiều cháu”.

 

4.

Hết chiến tranh Hồng trở về ngôi nhà nhỏ bên rìa thị trấn. Gọi là thị trấn nhưng bước chân ra vài trăm mét đã là cánh đồng rộng bao la. Mẹ cha mất cả, một mình cô thui thủi trong ngôi nhà trống trải. Đêm nào Hồng cũng nhớ về con và khóc miên man. Đất quê quanh năm gió. Những đêm mùa hạ, gió nam cồ thổi ràn rạt như đàn ngựa phi làm chuyển động cả khu vườn, cột kèo rung lên bần bật, Hồng cảm thấy hoang mang lo sợ. Trước khi gió nam cồ về là gió nam non, nam mái. Những đợt gió nam non lao xao từ phía Tây Nam thổi về thường mang theo mưa. Sau mưa ếch nhái râm ran, con ễnh ương trên tàu chuối sau nhà ồm oam suốt đêm càng làm Hồng thấy sợ và nhớ thương con thắt ruột. Vẫn biết, trong tình huống đó, không còn sự lựa chọn nào khác, nhưng Hồng vẫn day dứt. Cô đã bỏ công dò tìm ròng rã mấy năm trời nhưng vô vọng. Sau ngày giải phóng, nghe tin hàng vạn trẻ em Việt Nam bị bắt đưa sang Mĩ, cô lo sợ biết đâu trong đó có con mình. Đúng lúc cô tuyệt vọng thì anh Trung bất chợt mang tin vui về.

Từ ngày có thằng Hào, hai mẹ con quấn quýt bên nhau. Thằng bé giống cha, từ khuôn mặt, dáng đi, đặc biệt là mái tóc xoăn bồng bềnh nghệ sĩ. Nó thông minh học giỏi và rất có năng khiếu âm nhạc, ghi-ta, sáo, nhị… cái gì cũng chỉ học qua là chơi được. Tốt nghiệp đại học kiến trúc thành phố Hồ Chí Minh, nó ở lại làm việc xây dựng gia đình trong đó. Vậy là Hồng vẫn lại sống một mình. Nhiều đêm nằm lẩn mẩn tính, Hồng thấy thời gian được ở với thằng Hào quá ít. Ngôi nhà vẫn quanh năm vào ra chỉ một bóng người.

Thế nên việc nhà bà Hồng bỗng nhiên xôn xao tiếng cười nói như hôm nay đã trở thành sự kiện lạ với bà con xóm giềng lối phố. Tiếng trẻ bi bô. Tiếng dao thớt băm chặt. Mùi xào nấu thơm lừng…

Chợt có tiếng vẳng vào từ con đường lớn: “Bà Hồng ơi có khách!”

Cả bà Hồng bà Chinh và vợ chồng Hào cùng ào ra cổng. Ông Dong-hyun từ taxi bước xuống. Một thoáng sững sờ khi ông nhìn thấy Hào. Gió nam cồ thổi mạnh làm hất tung mái tóc của ông. Ông sựng người vụt nhớ về khuôn mặt và mái tóc nghệ sĩ bết máu của người lính Việt Cộng năm xưa.

Ông chầm chậm bước tới và ôm chầm lấy Hào.

Vừa buông Hào ra, ông Dong-hyun bắt gặp ánh mắt bà Chinh. Ông vội quay mặt đi giấu nước mắt. Rồi ông bế bé Huyền con gái Hào cùng mọi người vào nhà.

Sau những ngượng nghịu ban đầu, bữa trưa đã diễn ra trong không khí sum vầy. Những câu chuyện thời chiến tranh được nhắc lại. Những hỏi han về hoàn cảnh gia đình nhau chân tình không chút khách khí. Mặc dù về nước mấy chục năm nhưng vốn tiếng Việt của ông Dong-hyun còn khá tốt. Ông gọi bà Chinh là “cô giáo của tôi”, gọi Hào là “chàng trai của tôi”, còn bà Hồng, ông khó khăn loay hoay tìm từ để gọi cho phù hợp. “Thì gọi là mẹ chàng trai của tôi”, bà Chinh cười gợi ý. Ông Dong-hyun hơi nhíu mày để hiểu nghĩa của cụm từ. Rồi ông thoáng đỏ mặt đưa ánh mắt dò hỏi về phía bà Hồng. Thấy bà Hồng chỉ đáp lại bằng một nụ cười ý nhị, ông mạnh dạn hẳn lên:

“Mẹ chàng trai của tôi ạ. Mấy mươi năm nay, cùng với mong ước gặp lại chàng trai của tôi, tôi cũng có nguyện vọng tìm được người thân của một người lính hi sinh năm xưa để nói một câu xin lỗi và trao lại kỉ vật này!”

Ông chầm chậm rút ra từ ba lô một cây sáo trúc đã lên màu nâu bóng đặt lên bàn. Lập tức bà Hồng nhoài tới vồ lấy ống sáo run rẩy đưa lên ngang mặt. Mắt bà ầng ậc nước. Bên trái góc ống có khắc hình trái tim và hai chữ in hoa T - H lồng vào nhau. Bà nức nở:

“Hào ơi! Chiếc sáo của cha con đây rồi!”

Dù đã linh tính từ khi gặp lại Hào, song ông Dong-hyun cũng không nén được xúc động. Ông kể lại cái đêm ấy, cái đêm người lính trẻ trúng đạn và gương mặt thư sinh, mái tóc nghệ sĩ đã không ngừng ám ảnh ông cho đến tận hôm nay.

Hào bần thần cầm ống sao, ánh mắt đắm chìm vào vào từng lỗ gió. Rồi anh từ từ đưa ống sáo lên môi. Một giai điệu dìu dặt ngân lên.

Bà Hồng ngây lặng khi bắt gặp hình ảnh và âm thanh của mấy chục năm về trước. Suối mơ bên rừng thu vắng, dòng nước trôi lững lờ ngoài nắng… Phút chốc bà như vụt về thời con gái trong căn cứ, ngây ngất trong tiếng sáo mê hoặc của Trường. Tiếng hát trong veo da diết cất lên. Suối ơi, ôi nguồn yêu mến, còn ghi khi bóng ai tìm đến… Tơ đàn chùng với theo tháng năm. Rừng còn nhớ tới người… Ông Dong-hyun lặng người đi. Dù không hiểu hết ca từ, nhưng ông vẫn cảm nhận được đầy đủ hồn cốt của nhạc phẩm. Ông lặng lẽ đứng dậy bước đến trước bàn thờ ngắm kĩ tấm di ảnh đã khiến ông giật mình ngay khi vừa bước vào nhà. Ông thành kính thắp nhang chắp tay vái lạy. Trong làn khói thơm, ông thấy người lính Việt Cộng nhìn mình bằng đôi mắt sáng không vương chút hận thù. Thoắt chốc ông cảm thấy lòng mình thanh thản…

P.X.L

VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Các nguyên mẫu trong "Trăng lên"

Các nguyên mẫu trong "Trăng lên"

Cụ đã kể cho tôi nghe về cuộc đời của mình. Cụ nguyên là một võ sư. Cuộc đời cụ có thể viết thành một thiên tiểu thuyết... (THẾ ĐỨC)

Từ những ánh sao đơn lẻ

Từ những ánh sao đơn lẻ

Năm 2023 với tôi được đánh dấu bằng những chuyến đi ý nghĩa, ý nghĩa với trải nghiệm của một người viết và ý nghĩa đối với chính việc viết... (NGUYỄN XUÂN THỦY)

Người cựu binh chiến trường K

Người cựu binh chiến trường K

Tôi luôn bị ám ảnh bởi những mảnh xước của chiến tranh, đó là sự khốc liệt nơi chiến trường, là người lính trở về với cuộc sống đời thường và nỗi niềm nơi hậu phương. (BÙI TUẤN MINH)

Truy tìm Nadja

Truy tìm Nadja

Là tác phẩm nổi tiếng bậc nhất của André Breton, suốt nhiều thập kỉ, danh tính của nàng Nadja - người cũng được chọn là tựa đề sách - vô cùng bí ẩn.