Nanh rắn

Thứ Năm, 23/10/2025 17:05

. LÊ QUANG TRẠNG
 

Hễ tháo ra khỏi cổ chiếc nanh y như rằng tôi lại nằm mơ. Chiêm bao đẫm mưa rừng gió núi, lần nào cũng vậy, xóm nhà mồ bên rìa làng từ từ hiện ra. Ngọn núi rất quen, làng K’ro nằm chênh chếch bên sườn. Chỉ nắng sáng chiếu rọi tới nơi đây. Mặt trời quá ngọ, làng bao trùm bởi bóng che của núi. Lũ trẻ chạy theo vết nắng đang lùi dần, đến chỗ xóm nhà mồ thì dừng lại, quay về. Ba mẹ chúng dạy, đó là ranh giới của làng, không được ra xa hơn nữa. Bọn trẻ quay về đến nhà rông thì đúng ba giờ chiều. Cây cột rung rinh lá bùa trấn quỷ, tiếng lục lạc vang lên leng keng, đám trẻ về nhà vùi củ khoai vào bếp lửa…

Minh hoạ: Ngô Xuân Khôi

Nhớ lại năm đó khi đã tốt nghiệp ngành báo chí, trong lúc chưa sẵn sàng để đầu quân ở tòa soạn nào đó, tôi vô tình tìm thấy làng K’ro qua một bài viết trên mạng xã hội. Trong đó miêu tả rằng làng sống quần cư trên dưới trăm người, trang phục không khác mấy so với các thổ dân miền núi trung du. Họ có nhà rông cao lớn và nhà mồ với vô số những pho tượng gỗ phản ánh quá trình lịch sử và sinh hoạt của cộng đồng K’ro hàng nghìn năm qua. Có thể, đây là một bộ tộc có nền văn hóa gần như nguyên thủy, tồn tại sau bao quá trình chinh chiến và đồng hóa? Nơi đây những cây k’ro mọc ngay ngắn theo hàng lối như có ai đó trồng, chẳng khác nào rừng cao su hoặc rừng thông công nghiệp.

Còn muốn đến đó, tác giả bài viết hướng dẫn từ ngã ba đường cái phải băng qua hai cánh rừng, hai con suối và men theo lối mòn của thợ săn…

Tôi quyết định đi một chuyến thử sức với đề tài lạ. Trong ba lô có thuốc men, vật dụng cần thiết đủ sống trong một tuần nếu lạc giữa rừng, làm tôi yên dạ. Xe thả xuống chỗ ngã ba, nhìn quanh mãi vẫn không thấy dấu vết nào của lối mòn đường núi. Lê la hỏi cánh xe ôm, mấy ông chú nói, lên đó chi, họ sống khép kín lắm, không giao tiếp với mình đâu, lơ mơ phạm luật làng lại bị giết. Phải nài nỉ mãi, mới được một chú chỉ, có bà già hay đổi khô với họ, muốn đến đó thì thuê xe chú đưa đi. Mừng rỡ đồng ý ngay, tôi lên xe đi một đoạn không xa thì đến. Gian hàng của bà già nhỏ xíu, bày ra trước căn nhà nhỏ ven đường mòn lên núi. Bà nói, đường này ít ai tới lui, ngoài những người dân tộc từ trên cao nguyên xuống đổi chuối rừng lấy khô cá mặn. Nghe nói về việc muốn lên tìm hiểu về làng K’ro, ban đầu bà cũng có vẻ can ngăn. Nhưng sau nửa giờ nói chuyện, bà nói, “sáng mai đến hẹn, họ sẽ mang chuối xuống. Cậu muốn đi thì men theo họ mà lên… Nhớ cẩn trọng”.

Chờ đến sáng hôm sau, quay trở lại. Quả nhiên có hai người đàn ông K’ro vác mấy buồng chuối to tướng và một con gà rừng xuống núi. Họ cởi trần đóng khố, da đen như quét lọ, cổ đeo dây màu bạc rất lạ. Không nói gì, thả buồng chuối và con gà xuống đất, họ chỉ tay vào bọc khô cá mặn và thúng muối của người đàn bà. Xòe những ngón tay, bà thương lượng vài lần. Họ gật đầu rồi cầm lấy mớ khô và bọc muối quay đi. Tôi chạy theo, ngỏ lời:

“Anh anh, anh lên làng K’ro đúng không? Cho tôi xin đi theo với.”

Họ ngoái lại nhìn tôi, lẳng lặng không nói gì, chân vẫn đi. Bước chân họ càng lúc càng nhanh. Tôi vẫn men theo sau, lo lắng quặn lên. Hai người đi ngoằn ngoèo lên ngọn đồi cách nhà bà già bán khô chừng bốn trăm mét rồi đi xuyên vào rừng. Đi theo, tôi ngỏ lời nói chuyện nhưng họ vẫn lặng im không một lời nào, suốt buổi.

Đi qua một cánh rừng bằng đường mòn, rồi qua thêm hai con suối, họ vẫn không ngó ngàng gì đến sự hiện diện của tôi. Đi với nhau nhưng họ cũng chẳng nói chuyện gì, tiếng rừng hòa cùng tiếng bước chân làm tôi nôn nóng. Không hiểu sao lúc ấy lại không nhận thấy một sự bất ổn hoặc nguy hiểm nào từ hai người xa lạ và lạnh lùng. Vẫn cứ men theo sau lưng họ, bắt đầu có nỗi sợ ngoi lên trong tôi. Qua suối, hai người K’ro cầm lấy một cây gậy được để sẵn, vừa đi vừa đập đập lên mặt đất. Tôi ngó theo, nhìn quanh không thấy một cây gậy nào. Bẻ nhánh cây khô ven đường mòn, tôi làm gậy và cũng đập đập như họ. Một trong hai người họ bỗng nhìn lại, đôi chân mày chau ở giữa trán, rồi lại đi tiếp.

Đường vào càng sâu càng âm u, có đoạn đi qua cả một đoạn rừng tối mù mù như trời sụp chiều. Đập đập cây men theo, tôi qua vùng tối, ánh sáng hực lên như vừa qua cửa hầm tàu. Hai người đàn ông bỗng dưng biến mất, không để lại dấu vết của gậy hay bất cứ một âm thanh nào. Dừng chân ngó quanh, tôi cố nhìn trong những lùm bụi và các cây cổ thụ, vẫn không thấy bất cứ tín hiệu nào của họ. Mất hơn nửa tiếng tìm kiếm vẫn vô vọng. Tôi quyết định đi theo chỗ cỏ không mọc, dọc dài thành con đường mòn phía trước.

Đi không xa thì gặp một tảng đá to chắn ngang con đường giữa rừng thăm thẳm. Nhưng khi chưa đến được chỗ tảng đá thì bỗng nghe có tiếng “khet...et...” vang ra. Đi thêm ít bước nữa, thấy choáng cả người, hoa mắt và chìm vào một khoảng đen thui, không cách nào mở mắt ra được. Nằm trên lớp lá rừng, tôi cảm nhận như có đàn kiến đi khắp người. Toàn thân bắt đầu lạnh, sau đó thì không còn biết thêm gì. Cho đến lúc mở mắt ra, đã thấy mình nằm ngửa ở một nơi rất lạ, chân phải tê cóng không cách nào nhất lên, đầu ong ong như ở dưới hang sâu.

Một trong hai người đàn ông ban nãy, nói tiếng Kinh lơ lớ, tôi nghe tiếng được tiếng không. Rằng, tại sao lại đi theo họ. Chưa kịp trả lời, lại nghe anh ấy nói tiếp, “rắn chúa đỏ cắn ở bìa rừng, già làng kêu đem về đây”. Lúc này tôi mới cảm nhận rõ ràng cơn đau nhức rim cả mình mẩy. Một ông già đến gần tôi, hình như là già làng. Ông có đôi mắt sâu bên dưới hai rừng mày rậm. Bộ râu già trắng như mây, rất dài, gần như chạm được đất. Không hiểu sao tôi bị mê hoặc bởi bộ râu của ông, trong cơn đau, vẫn cố mở mắt nhìn cho rõ.

“Anh khó qua khỏi.” - Già làng nói từng chữ, chậm và cứng.

Nhìn ông, tôi cố lên tiếng cầu cứu nhưng suốt mấy phút trôi qua vẫn không sao mở miệng ra nổi. Nghe hơi thở mình yếu dần, tôi biết không còn cách nào sống được nữa rồi. Đầu ngoẹo sang một bên sau trận nôn ói tơi bời. Nỗi hoang mang dần biến sang sự im lìm chấp nhận. Trong ánh mắt dần khép lại, dưới ánh sáng lờ mờ tôi nhận ra già làng đang đút cho mình thứ gì đó đắng chát. Lúc sau thì dần tỉnh và nói được. Già làng nhìn tôi như ý rằng rất muốn cứu chữa, nhưng không còn cách nào nữa. Lắc đầu tiếc nuối, ông nói:

“Theo lệ làng dành cho người lạ, trước khi chết, anh hãy nói lời cuối cùng.”

Tôi biết mình khó lòng qua được khi thần chết đã đến chờ sẵn. Chẳng kịp hối hận nữa, tôi cố nhắn nhủ rời rạc sau mỗi lần cơn đau nhói thắt tim:

“Trong chiếc ba lô… cháu có ít thuốc, lương thực. Xin ông… hãy chia cho… mọi người… trong làng...”

Vậy là xong, chẳng còn vướng bận gì.

Tưởng rằng mình đã chết, nhưng thật ra tôi chỉ thiếp đi giấc dài.

Khi tỉnh dậy, miệng tôi đặc nghẹt thứ gì đó ngòn ngọt. Già làng tháo từ cổ ra sợi dây có treo một vật giống chiếc nanh. Lấy vật ấy đẩy tới đẩy lui nơi chân tôi, một cảm giác lành lạnh và êm dịu chạy rần rần. Dần dần tôi cảm giác được bầy kiến trên người kéo đi, hơi thở từ từ trở về khi chân phải động đậy lại được.

Nằm bất động gần hết một ngày, tôi ăn những miếng cháo có mùi khẳn và mằn mặn. Hình như cả làng chỉ có anh thanh niên tôi đi theo và già làng là nói được tiếng Kinh. Anh nói rằng mình tên Síc. Mỗi khi tôi dậy, nếu không có hai người họ ở đây, bọn trẻ sẽ chạy đi tìm, chốc họ lại về hỏi tôi cần gì.

Ngày thứ hai, tôi ngồi dậy và dần dần đi lại được. Quần áo nặng mùi nước tiểu. Cố ra dấu, tôi được một đứa trẻ dắt ra phía xa, nơi có chiếc giếng rất sâu. Múc từng gàu nước khó nhọc ít ỏi, chỉ đủ rửa mình và rửa mặt. Lúc về đến nhà rông, già làng đã ngồi sẵn nơi đó hút điếu thuốc dài như chiếc đũa, dáng vẻ vừa oai nghiêm vừa gần gũi. Bộ râu bay bay trong gió thật mê say. Tôi bước lên vừa tới, cố gắng nhìn cho kĩ bộ râu. Già làng biết, ông vẫn ra vẻ bình thản để tôi ngó cho thật kĩ. Chút lâu ông nói:

“Hôm nay anh khỏe rồi!”

“Dạ, cháu cảm ơn ông nhiều lắm!”

“Theo lệ làng, thuốc rắn không dành cho người ngoài. Nhưng anh tốt bụng. Đến gần chết mà vẫn nghĩ đến chúng tôi, không lường gạt như bọn người khác từng đến đây và bỏ mạng vì xúi giục lũ trẻ bán hồn làng. Anh thành thực đến chết, nên tôi đã thông linh cùng thần mẹ, bà mách bảo hãy cứu.”

Lắng nghe ông nói, tôi thấy mình về từ cõi chết như một huyền thoại khó có thể tin ở trên đời. Già làng nhìn tôi cười, ông nói tiếp:

“Anh không biết quanh làng là một ổ rắn chúa đỏ hay sao mà tìm đến?”

Tôi rùng mình:

“Dạ, cháu không biết, cháu cũng chưa biết rắn chúa đỏ ra sao. Mà nếu chúng độc vậy sao làng không diệt hết chúng cho an toàn.”

Già làng nghiêng đầu nhìn tôi rất lâu, như có vẻ không vừa ý:

“Không được như vậy. Thần rừng sẽ trừng phạt chúng ta thảm hại. Những ông rắn bao đời đã bảo vệ làng ta tránh khỏi kẻ thù.”

Hình như già làng còn định giải thích thêm nhiều nữa, nhưng lúc đó có người đàn bà vừa khóc vừa cõng một đứa bé đang sùi bọt mép lên nhà rông, ông dụi điếu thuốc, bước đi nhanh như gió thổi. Người đàn bà gấp gáp nói gì đó rất nhanh và rất dài. Nhanh như chớp, già làng chụp lấy cây dao đang để bên bếp lửa, rồi một tay cầm lấy chót đuôi râu, một tay cắt ngang. Cố nhìn nhưng không cách nào tôi thấy rõ được những sợi râu cắt rời ra trên tay ra sao, chúng mỏng và nhỏ như những hạt bụi. Ông nhanh chóng đắp mớ bụi râu vào chỗ vết thương rắn cắn của đứa bé. Nó liền nhanh chóng ngưng co giật. Bước đến một cái giá treo những cục đá chít khăn đỏ ở giữa nhà rông, già làng lấy ra một cái lọ bằng đồng, rồi múc từ trong lọ ra thứ thuốc đen quánh như nhựa, trét vào miệng đứa nhỏ. Đang rên rỉ bỗng nó ngưng bặt, tiếng thở khì khị ban nãy bắt đầu dịu lại, mọi thứ có vẻ ổn. Người đàn bà bồng đứa trẻ đến, nói với già làng bằng tiếng K’ro, ông cũng đáp lại, họ nhìn tôi rồi trao đổi gì đó với nhau. Đứa nhỏ nằm im hơn một giờ thì bắt đầu ngọ nguậy, khóc váng lên. Già làng chỉ tay, người đàn bà cúi đầu rồi cõng đứa nhỏ trên lưng đi về phía những ngôi nhà sàn lô nhô phía cuối làng.

Minh hoạ: Ngô Xuân Khôi

Những ngày sau đó chân tôi vẫn còn sưng to, tôi vẫn ở tại nhà rông. Đêm, các thanh niên trong làng kéo nhau đến hành lễ, tôi nép sang một bên chăm chú nhìn theo. Những lời vái lầm rầm, tạo ra một thứ âm thanh quánh đặc đầy thần lực. Sau lễ, ngọn lửa ở giữa nhà rông được đốt cao lên, cánh thanh niên đi săn cũng vừa về, họ bày ra nướng thịt, vừa ăn vừa cười nói vui vẻ bên ấm rượu đun trên bếp lửa. Vài lần được mời rượu, thứ nước lạ lọc từ lá rừng làm nóng bừng lên như nuốt lửa. Ngà ngà say, tôi thấy già làng lấy rượu rửa râu rất kĩ. Xong, ông thoa lên một lớp mỡ bóng dợn, từng sợi râu sáng ánh lên lấp lóa. Nhóm thanh niên vừa ăn vừa ngó trầm trồ, tôi hỏi anh bạn nói được tiếng Kinh:

“Síc, Síc. Anh có muốn để râu như già làng không?”

Anh bạn nói nhỏ vào tai tôi:

“Phải được thần mẹ chọn, nhưng cực khổ lắm.”

Đó là những đêm tưng bừng, tôi cảm thấy trong cái rủi rắn cắn, mình có được cái may mắn trải nghiệm ở làng để sau về sẽ viết gì đó. Một phóng sự vài ba kì khẳng định tên tuổi chẳng hạn…

Ngày thứ sáu. Tôi nhận ra đám trẻ vô cùng thích thú mình. Chúng mê đắm chiếc ba lô, cái máy ghi âm, máy chụp hình và những miếng lương khô, mì tôm. Nấu một nồi mì thật to trong cái om đất, tôi mời già làng, ông vừa ăn vừa tấm tắc khen “chặc dạ, chặc dạ”. Số lương khô và mì còn lại, mỗi khi đến các ngôi nhà trong làng, tôi đều đưa cho đám trẻ nít, chúng thích thú cầm lấy rồi chạy ngay vào trong nhà nói gì đó chí chóe với ba mẹ hoặc ông bà.

Một lần, làng có người hấp hối. Già làng thức suốt mấy đêm ròng, chau mày trước pho tượng gỗ đang tạc dở. Cây dao lục của ông tạc những đường nét rất thô sơ. Đến xem chăm chú, tôi như bị mê hoặc bởi thứ nghệ thuật hồn nhiên gần gũi với thiên nhiên của làng. Chìa cho ông cây dao xếp, hiểu ý tôi nên già cười rồi nhận lấy gọt một số chỗ theo ý mình. Cây dao bén ngót, cắt tới đâu ăn ngon tới đó. Già làng mừng rỡ nhìn tôi với ánh mắt thèm thuồng.

“Con tặng già đấy.”

Già làng như không tin, hỏi lại mấy lần:

“Thật?”

Đến ngày ở thứ mười, tôi nhận thấy người K’ro không hung dữ như lời đồn đoán. Họ thật thà, nhưng luôn có sự đề phòng người lạ. Tuy nhiên nếu đã được lòng làng, thì họ thương quý như anh em ruột thịt. Đôi lần, làng có người bị sốt. Họ đến nhà rông tìm già làng. Lắc đầu, đôi mắt buồn hiu, ông rót cho uống thứ nước cúng ở bàn thờ thần mẹ, đến hai ba hôm vẫn không khỏi. Khi biết chắc rằng người bệnh chỉ bị sốt mà thôi, tôi lấy từ ba lô ra viên thuốc hạ sốt sủi bọt đưa cho già làng. Già nhìn tôi rất lâu, ông nói “tôi tin một lần này”, rồi làm theo cho họ uống. Quả nhiên người bệnh cắt sốt ngay sau đó. Mớ thuốc trị các bệnh thông thường còn lại, tôi phân phát gần hết cho những người bị sốt, ho, tiêu chảy… Họ nhận lấy cảm ơn, già làng nhìn, ông cười một nụ cười chẳng rõ là vui hay buồn…

Cho đến một đêm, khi ánh trăng chênh chếch kéo qua, già làng nói với tôi:

“Vết thương đã lành hẳn. Anh hãy trở về.”

Tôi chưa kịp trả lời, ông nói tiếp:

“Đêm qua trong lúc tôi thông linh cùng thần mẹ, thì bầy kiến lục đục tha trứng mang đi, những con mối rời ổ bay vào rừng. Sáng dậy tôi lật sách làng ra xem. Cụ tổ đã bảo rằng: Tháng Ba uống mưa sa/ Tháng Tư rào nắng ráo/ Tháng Năm bốc lên cao/ Tế nhơn lệ tháng Sáu/ Tháng Bảy nở trăng máu/ Tháng Tám hóa hồn lao/ Tháng Chín nước dâng cao/ Rắn cõng gà chạy bão. Điềm này ắt sắp tới làng có họa. Tôi nhiều năm qua dạy lũ làng về bài thuốc rắn, nhưng chẳng đứa nào chịu học, bởi lời nguyền của thần mẹ, làm thầy thuốc rắn ắt rắn cắn cổ. Cha và ông tôi đều bị rắn tha đi mất. Đến tôi cũng bị lời nguyền ám rằng rắn chúa đỏ sẽ không tha. Tuy nhiên, mấy mươi năm qua tôi có bùa nanh rắn chúa để trị chúng, còn lũ làng thì không.”

Nghe già làng nói, tôi thấy lòng ông mênh mông mà cô độc như cây cột treo lá bùa trừ tà phơ phất giữa sân làng. Già hút một ngụm rượu cần, rồi nói tiếp:

“Bầy trẻ ham mê vải vóc đẹp của người xuôi, chúng đánh cắp trầm mang đi đổi. Rừng thiêng nhờ trầm, trầm có khả năng tẩy uế. Chúng mang trầm đi về xuôi hết ắt thần rừng nổi giận. Tháng hạn năm cùng, rắn chúa đỏ sẽ bò vào làng, rồi xuống đến miền xuôi, người xuôi cũng không thoát nạn được. Lũ làng không học bài thuốc vì sợ lời nguyền, nhưng anh không phải lũ làng, anh không mắc lời nguyền. Nếu anh muốn học tôi sẽ dạy để tự cứu mình.”

Tôi nửa mừng nửa sợ. Những tục lạ của làng tôi không dám tùy ý tham gia. Tôi xin phép già cho tôi được về hỏi ý mẹ. Ông rất vui vẻ nói “Anh hỏi mẹ là đúng”. Già làng mở chiếc vòng cổ có đeo chiếc nanh, đưa ra phía tôi:

“Đây là nanh của con rắn đã sát hại bốn đời nhà tôi. Tôi đã phải đánh với nó suốt nhiều năm mới thắng. Trước đây có một cặp nanh, nhưng tôi đã đem tặng bộ đội vượt Trường Sơn một chiếc. Đeo chiếc nanh này, bất cứ con rắn nào gặp cũng phải né xa. Anh hãy mang vào người mà về xuôi. Con trăng tháng sau, anh lên đây, tôi sẽ dạy cho nghề thuốc rắn.”

Tôi cầm chiếc nanh, nó lạnh như đồng, hực lên một mùi là lạ. Mọi người tiễn tôi xuống núi. Già làng đưa tôi một chiếc rìu và nói:

“Anh hãy khắc vào những cái cây, lần sau nhớ đường mà lên.”

Một tháng sau, tức vào ngày rằm tháng Ba âm lịch, báo đưa tin vùng núi ở rừng K’ro bị lũ quét, sạt lở kinh hoàng. Các đoàn tiếp tế không cách nào tiếp cận được. Chuẩn bị hai ba lô đầy, tôi lập tức lên đường. Con đường mòn lên núi K’ro cát đá lấp đầy, tôi đứng ở nửa con đường không biết lối nào đi tiếp. Bất giác từ xa có tiếng người hú gọi, thì ra là Síc, anh nói lắp bắp vài câu tiếng Kinh rằng già làng bảo anh ra đây đón tôi, anh đã ở đây chờ hai ngày rồi.

Tôi đến làng theo con đường ngoằn ngoèo ghềnh thác mà Síc gọi là đường tắt. Cánh rừng K’ro ngổn ngang cây đổ. Ngôi nhà rông sập gần hết, chỉ còn những cây cột chỏng chơ. Già làng đang ngồi bên cây cầu thang đã gãy nửa dưới, nửa còn lại vẫn bắt vào khoảng không, như chiếc thang đưa người ta lên miền mây trắng. Gương mặt già làng thất thần, những nếp nhăn khổ ải loang nước mưa, nước mắt và cả những dòng bùn đất K’ro. Già ngồi như thế rất lâu, như một pho tượng bất động giữa hoang tàn. Con trăng non vừa treo nơi đầu núi, có ngọn gió thổi ngang mắt già làm ánh nước rung rinh. Tôi giơ máy ảnh, không nhắm, bấm liền mấy tấm.

“Sách làng, cốt thần mẹ đã bị lũ cuốn đi rồi.” - Già làng nói như người mộng du.

Đêm, già đưa tôi vào hang núi cách làng non năm trăm mét, dân làng lớn nhỏ gái trai đều trú ở nơi đây. Mở laptop, sóng 3G lúc trồi lúc sụt, hụt hửi mấy lần, chùm ảnh chụp già làng cùng tin trận lũ quét mới tới được anh bạn đang làm ở một tờ báo ảnh. Lập tức gọi điện lại:

“Trời ơi, mầy chụp được bộ ảnh đã quá trời. Chuyển sang tông màu trắng đen dự thi cuộc thi ảnh quốc tế đi, mầy thắng chắc.”

Lặng im nghĩ suy một chút, trong khi bên kia máy anh bạn vẫn không thôi huyên thuyên.

“Mầy nghe anh, gửi thi đi, hay để anh gửi cho. Nhưng mầy phải kêu ông già cạo râu, rồi giúp làng dọn dẹp đống đổ nát thật sớm, ảnh được đăng lên trang web cuộc thi, thế nào tụi nhiếp ảnh chuyên nghiệp cũng mò tới, mầy phải giữ độc quyền khung cảnh của ảnh này, nhất là hàm râu ông già làng. Hay giờ coi như anh gửi cho mầy đi thi nha, có giải chia anh một nửa là được, giải hơn chục ngàn đô ngon ơ đó.”

Nhìn lũ làng nằm ngổn ngang trong hang, số tiền lóe lên trong tôi như ngọn đèn sáng trong đêm tối:

“Em làm sao dám kêu già làng cạo râu cho được?”

“Mầy cứ kêu đi, nói rằng hễ cạo xong sẽ cho gạo, mì, thuốc men và cho cả tôn giả mái tranh để dựng lại làng. Sáng mai tao ứng trước, cho xe tải chở lên ngay. Bất quá mình kêu gọi từ thiện từ từ cũng được, không lỗ đâu mà lo.”

Rụt rè, tôi ấp úng mở lời với già làng. Ông cương quyết “không được”. Già bảo rằng hàm râu này chính là thuốc để cứu lũ làng. Bảy mươi năm qua, mỗi ngày ông phải ăn măng sâm đắng để râu có thể khống chế nọc độc của rắn chúa đỏ. Chưa kể, râu còn là biểu tượng của già làng, là truyền thống truyền đời của làng K’ro.

Sáng hôm sau, để lại mớ thuốc men và những gói cháo dinh dưỡng trẻ em trong hai ba lô, tôi từ giã mà lòng vẫn chưa nguôi nỗi buồn vì ngôi làng hoang tàn tan nát. Già làng bận bịu lo việc làng, không còn thời gian truyền nghề thuốc rắn. Tôi trả già làng chiếc nanh rắn, ông đẩy tay ra:

“Anh cứ giữ đấy, tháng sau hãy lên, tôi sẽ dạy nghề thuốc rắn. Tôi sẽ cạo râu, anh hãy cho làng những điều anh đã hứa.”

Tôi ngạc nhiên đến sững sờ. Hẳn già làng đã suy nghĩ rất lung cả đêm và đổi ý.

Chiều hôm đó, già làng hướng về tây quỳ lạy rất lâu. Ông mím môi, đôi mắt buồn vời vợi. Rồi ông cắt râu. Ông cắt từng sợi một. Những sợi râu đẫm nước mắt rơi trên nền đất sền sệt bùn sình. Tôi chụp lia lịa hàng trăm tấm ảnh, máy nóng lên trên tay như muốn nổ tung. Quả thật, có gì đó nhói lên trong tôi, nhưng cảm giác chiến thắng, tham vọng vẫn nhiều hơn, nó lấn át đi tất cả.

Sợi râu cuối cùng rơi cũng là lúc tôi và trai tráng của làng băng rừng ra phía lộ. Những thanh niên K’ro hân hoan khuân vác đồ đạc, muối gạo, thuốc men, cùng đèn, ắc quy về làng; còn tôi, sẽ theo xe về xuôi…

*

*         *

Đúng một tháng sau, tin báo từ Bắc Kinh, tôi thắng giải đặc biệt trong cuộc thi nhiếp ảnh quốc tế về thiên tai và môi trường. Tôi nhanh chóng được kẻ đón người đưa, cùng lời hứa hẹn nhận vào làm việc ở một tờ báo ảnh hàng đầu thành phố sau khi nhận giải trở về. Tôi có chuyến đi nước ngoài đầu tiên, bao điều bỡ ngỡ đến nhanh như chớp.

Ba tháng, sau những hào quang và bận bịu với những cuộc họp báo, phỏng vấn. Mệt mỏi sau cuộc họp tòa soạn căng thẳng vì bí đề tài, nhìn chiếc đồng hồ mua được ở sân bay, tôi chực nhớ mùa này làng sắp vào ngày hội tế nhơn thần mẹ. Ngày ấy, làng sẽ hiến mạng một con dê thay cho mạng người.

Bận bộ quần áo của người K’ro, đem chiếc máy ảnh hiện đại nhất của tòa soạn, hi vọng những khoảnh khắc cuộc mổ sống dê lấy trái tim tế thần sẽ mang về những tấm ảnh để đời. Bởi ngoài tôi, hầu như không người miền xuôi nào khác có thể vào đến tận nơi tế lễ của làng K’ro.

Con đường đến làng đã rộng mở hơn. Xe leo núi đã vào được tận suối. Nơi đó, trong con nước chảy rì rào, đám người chụp ảnh không thôi chớp đèn bên hai cô gái K’ro bận áo the mỏng díu, tát nước đùa giỡn với nhau một cách gượng gạo.

Tôi đi thẳng vào làng. Ngôi nhà rông được cất lại y chỗ cũ, lợp những tấm tôn sáng quắc như hắt lại ánh sáng với mặt trời. Đám trẻ dưới sân nhà rông nhìn tôi, ngơ ngác, xòe tay.

Tôi bước lên ngôi nhà rông mới, không một ai. Những tấm ảnh của tôi và những nhiếp ảnh gia khác chụp làng được treo quanh vách thay cho những phù điêu, tranh vỏ cây bị lũ và người cuốn về miền xuôi. Ở giữa là chiếc rổ thờ treo, nghi ngút khói tỏa ra từ chiếc ấm khói bằng pin. Anh Síc bước lên nhà rông, râu ria xồm xoàm đen đúa.

“A ha, thầy!”

“Anh Síc, già làng đâu anh?”

“Đã mất cách nay một tháng. Già bị rắn chúa đỏ cắn trong lúc vào rừng xẻ gỗ cất lại nhà rông. Hàm râu không còn, già sốt. Thuốc thầy cho, già uống tận hai nắm tay vẫn không khỏi, mồm sùi bọt mãi, mắt trợn tròng rồi về với thần mẹ mà vẫn chưa kịp truyền lại cho ai bài thuốc.”

Tôi đứng chết trồng. Hơi nóng từ những tấm tôn hực xuống khiến không khí nóng như lò lửa. Nhưng chiếc nanh rắn đeo nơi cổ tôi vẫn lạnh như đồng.

Tôi gục xuống tấm thảm giả da beo trải trên sàn gỗ trước tấm di ảnh già làng, cảm giác những bầy kiến rừng đang dần tủa ra khắp người. Khóe mắt tôi nóng hổi. Tôi khóc cho già làng, khóc cho chính mình hay cho bài thuốc rắn màu nhiệm thất truyền?

L.Q.T

VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Nguyên mẫu của tôi là những người đã phất cao cờ hồng tháng Tám năm 1945

Nguyên mẫu của tôi là những người đã phất cao cờ hồng tháng Tám năm 1945

Là người đi dọc biên giới phía Bắc, tôi có thế mạnh khi hình dung, mở ra không gian của giai đoạn lịch sử đó... (PHẠM VÂN ANH)

Các nguyên mẫu trong "Trăng lên"

Các nguyên mẫu trong "Trăng lên"

Cụ đã kể cho tôi nghe về cuộc đời của mình. Cụ nguyên là một võ sư. Cuộc đời cụ có thể viết thành một thiên tiểu thuyết... (THẾ ĐỨC)

Từ những ánh sao đơn lẻ

Từ những ánh sao đơn lẻ

Năm 2023 với tôi được đánh dấu bằng những chuyến đi ý nghĩa, ý nghĩa với trải nghiệm của một người viết và ý nghĩa đối với chính việc viết... (NGUYỄN XUÂN THỦY)

Người cựu binh chiến trường K

Người cựu binh chiến trường K

Tôi luôn bị ám ảnh bởi những mảnh xước của chiến tranh, đó là sự khốc liệt nơi chiến trường, là người lính trở về với cuộc sống đời thường và nỗi niềm nơi hậu phương. (BÙI TUẤN MINH)