Hai người đàn bà xóm Trại

Thứ Tư, 18/09/2019 08:16

Chuyện những người đàn bà chờ chồng trong chiến tranh có ở hầu hết mọi miền quê trên đất nước Việt Nam. Có những miền quê không hề nghe thấy tiếng đạn bom suốt hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mĩ, nhưng nỗi đau mà những con người ở những miền quê ấy phải chịu đựng to lớn khôn cùng. Cho dù chiến tranh tàn phá một đất nước khủng khiếp đến thế nào con người vẫn xây dựng lại được sau khi chiến tranh kết thúc. Nhưng tuổi xuân của những người đàn bà ra đi chẳng bao giờ trở lại. Chiến tranh giết chết giấc mơ lớn nhất, đẹp nhất của những người đàn bà là giấc mơ được sinh nở. Với tôi, câu chuyện về những người đàn bà chờ chồng trong hai cuộc kháng chiến của dân tộc vẫn vọng mãi cho tới bây giờ.


Nhà văn NGUYỄN QUANG THIỀU

Vào lúc lên đèn thì trời có mưa. Có lẽ đây là cơn mưa cuối đông, vì chỉ còn mươi ngày nữa là tết. Gió từ bãi sông rộng thổi từng làn mưa bụi về phía chân đê. Tiếng mưa mỏng và nhẹ như tiếng người thì thào đâu đó. Cả triền bãi rộng chảy ven chân đê làng Chùa chỉ còn lại một ngôi nhà nhỏ. Trong ngôi nhà ấy có hai người đàn bà đã sống với nhau mấy chục năm nay. Bây giờ tóc họ đã trắng. Và lúc này họ đang ngồi trong cái bếp nhỏ ấm áp bởi hơi rơm, lá chuối khô và lửa bếp. Chiếc mâm gỗ có một vệt nẻ to được đặt trên nền bếp bằng đất lâu ngày cứng lại như đá. Trên mâm chỉ độc một bát canh dưa nấu tép bốc hơi nghi ngút. Hai bà lão ngồi ở hai phía mâm đối diện nhau. Hai cặp đầu gối xương xẩu nhô cao đỡ lấy hai gương mặt nhăn nheo và sạm đen.
- Bà mua mớ tép này của ai? - Bà lão Ân hỏi và lấy đũa đảo đảo bát canh.
- Mấy đứa trẻ trâu - Bà lão Mật trả lời - Chúng nó mang vào tận đây.
- Mớ tép này mấy đồng?
- Hai ngàn.
- Bà cứ có tật mua nhiều. Không bảo chúng nó xẻ lấy một nửa.
- Có dúm tép bằng dúm muối, xẻ một nửa còn lại chúng nó bán cho ai.
Hai bà lão lặng lẽ bưng hai bát cơm xới với như cơm cúng và nhóm nhém ăn.
- Nấu tép dưa phải nấu cho dừ - Bà lão Ân càu nhàu - Xương cứng ê cả răng.
- Tép bằng lỗ mũi xương ở đâu ra.
- Bà còn khoẻ răng, chứ tôi sờ mãi chẳng được một cái.
Hai bà lão vừa ăn vừa lầm rầm những chuyện như thế. Bên ngoài ngôi nhà mưa vẫn thì thào. Trong tiếng mưa vẳng lên tiếng chó từ mấy gia đình ở chân đê bên kia.
- Đấy! Tôi nói rồi - Bà lão Ân khẽ kêu lên và ho.
- Hóc xương cá rồi đấy. Khổ.
- Bà cứ khạc mấy cái là nó ra - Bà lão Mật lo lắng.
Bà lão Ân đặt bát cơm ăn dở xuống mâm và quay sang phía khạc khạc mấy cái.
- Có khỏi không?
- Có được đâu. Không khéo lại chết vì hóc xương tép.
- Bà cứ hay dở mồm - Bà lão Mật nói và chợt reo lên - A, để tôi chữa mẹo cho.
Bà lão Mật vội vàng cầm lấy hai chiếc đũa cả còn dính đầy cơm và lom khom đến bên bà lão Ân.
- Bà ngồi im nhé. Cứ nhắm mắt lại.
Bà lão Mật vừa nói vừa đưa hai chiếc đũa cả cách đỉnh đầu bà lão Ân chừng gang tay. Rồi vừa gõ hai cái đũa cả vào nhau bà vừa lầm rầm như người niệm chú: “Gần ra, xa vào”. Đọc đúng bảy lần thì bà dừng lại và hỏi:
- Được chưa bà?
Bà lão Ân không trả lời. Bà vất vả nuốt miếng. Một lát sau bà nói:
- Được rồi. Chả ăn nữa. Sáng mai đun lại cho kĩ.
Ăn xong bữa cơm tối, hai bà lão bỏ thêm cái gốc tre vào bếp và lấy trầu ra ăn. Bà lão Ân lấy một miếng cau tươi đưa lên cho bà lão Mật.
- Ở đâu mà có cau tươi thế này? - Bà lão Mật hỏi.
- Cau từ hôm cưới con nhà Phấn. Chúng nó nhét đầy cả túi.
- Con nhà Phấn à?
- Con nhà nó chẳng ra đón bà vào ăn cỗ là gì? Bà ốm bà không đi mà lại còn không nhớ.
Sau đó hai bà lão im lặng nhai trầu. Ngọn lửa ăn dần vào gốc tre khô. Ánh lửa gần gũi và xa xôi chập chờn trong hai đôi mắt đã đục mờ.
- Thế tết năm nay định gói bao nhiêu bánh? - Bà lão Ân quay lại phía bà lão Mật hỏi.
- Gói bao nhiêu thì gói. Nhưng vừa vừa thôi. Năm nào cũng bỏ mốc meo cả.
- Cứ nấu ba chục cái.
- Gớm, bà làm như nấu cho cả làng.
- Cứ nấu thế. Trẻ con trong làng ra chơi thì cho chúng nó. Rồi… nhỡ có ai về…
Nghe bà lão Ân nói vậy, bà lão Mật từ từ ngước đôi mắt đục mờ lên nhìn một lúc lâu rồi hỏi khẽ:
- Ai về?…

*
* *


Mấy chục năm về trước. Cũng những đêm mùa đông giáp tết ở trong chái bếp như thế này. Hai bà lão ngồi trước bếp lửa và hồ hởi nói với nhau về chuyện gói bánh chưng. Ngày ấy họ còn trẻ lắm. Cả hai chưa ngoài hai mươi tuổi.
“Năm nay thế nào anh ấy cũng về - Mật thì thầm - Chị Ân nhỉ”.
“Tao cũng mong quá - Ân nói như bằng hơi thở - Đêm qua tao mơ thấy con gà trống mổ vào ngón tay út. Mấy năm rồi chẳng ai về tết”.
“Em phát ốm vì chờ thôi”.
“Giá có đứa con… thì họ đi bao giờ cũng được”.
“Chị Ân ơi - Mật chợt kêu và ôm lấy Ân - Mấy đêm trước em cũng mơ. Em thấy anh ấy về và… ngay đêm đó…”.
Nói đến đó mặt Mật ửng đỏ và đôi mắt Mật vừa lấp lánh vui, vừa bối rối.
“Đêm đó thì sao? - Ân lườm mắt, mắng yêu Mật - Con khỉ”.
“Ngay đêm đó em mơ em có mang. Lúc tỉnh dậy sờ bụng cứ thấy khang khác. Em sợ lắm”.
“Con này nói chuyện vớ vẩn”.
“Thật đấy mà, đến hôm nay em vẫn thấy bụng mình khang khác như thế - Mật nói và cầm tay Ân kéo đặt lên bụng mình - Chị sờ mà xem. Đấy, chị thấy khác không?”.
Vì tò mò, Ân cũng đưa tay ấn ấn vào bụng Mật. Và một lúc sau Ân cũng hoảng hốt vì thấy hình như bụng Mật không bình thường.
“Này… - Ân thì thào - Chồng đi vắng, hay mày trót dại…”.
“Chị bảo dại cái gì?…”.
“Có thằng nào nó rủ rê mày không?”.
“Không làm gì có chuyện ấy. Có mà trôi sông”.
“Tôi phải trông nom cô - Ân nói - Có chuyện gì thì tôi và cô cứ là bỏ cái xóm bãi này mà lên rừng đấy nhé”.
Ân và Mật đều mồ côi bố mẹ và lớn lên lấy chồng. Họ đưa nhau ra xóm bãi lập nghiệp. Rồi một đêm hai người đàn ông của họ khăn gói theo một đơn vị bộ đội vượt sông Đáy về phía núi Miếu Môn. Trước khi qua sông hai người đàn ông dặn: “Hai chị em dọn về mà ở với nhau. Đến tết, kháng chiến thành công chúng tôi về”. Từ ngày đó Mật dọn sang ở với Ân. Họ sống như hai chị em ruột với nhau.
Và mỗi khi sắp đến tết, cả hai lại xuống bến rửa lá dong và vo gạo. Má họ rựng đỏ trong gió lạnh cuối đông. Tiếng cười họ trong trẻo và rạo rực vang lên trên mặt sông mùa nước cạn yên tĩnh. Nhất là vào đêm luộc bánh cả hai đều thấy hồi hộp lạ lùng. Họ cảm thấy da thịt họ thấm đầy hơi lửa bếp. Khi bánh chín, họ chọn những chiếc bánh đẹp nhất, chắc nhất để phần hai người đàn ông của họ. Nhưng những ngày tết thường vụt đi như tên bắn. Cánh bãi không còn tiếng pháo tép của trẻ con nữa. Và những bầy sáo tháng giêng đã loáng thoáng bay về. Ân và Mật mang những chiếc bánh đã khô lá dồn lại. Cho đến khi ở đầu góc bánh đã lấm tấm mốc xanh thì họ không còn bình tĩnh đợi chờ nữa. Cả hai cùng khóc. Đêm xuống, hai người đàn bà nằm xoay lưng vào nhau trên chiếc giường lót rơm và giấu tiếng thở dài.
“Chị ngủ à, chị Ân” - Mật thường bắt đầu câu hỏi như thế trong đêm.
“Chưa”. Ân trả lời trong chăn.
“Sao tết năm nay các anh ấy lại cũng không về nhỉ?”.
“Có giời mà biết - Ân giận dỗi - Chắc chiến dịch bận”.
“Mai mình cứ luộc lại bánh chị Ân ạ”.
“Luộc đến thành cháo à. Bỏ ra mà ăn hết đi”.
“Ăn làm sao hết những hai chục cái”.
Sau những câu chuyện như vậy cả hai lại chìm vào giấc ngủ lơ mơ. Thường sang giêng gió sông ấm hơn và đất bãi phả hương phù sa dễ chịu làm cho giấc ngủ của họ thường có những cơn mơ. Trong mơ, Ân lại thấy con gà trống tía với chiếc mào đỏ rực, cái ức rộng, và đôi cựa bóng như ngà mổ mổ vào ngón tay út của mình. Còn Mật vẫn cơn mơ vừa hạnh phúc vừa lo sợ. Mật thấy người lính trở về và ngay đêm đó Mật có mang. Và cứ tỉnh giấc, Mật lại đặt tay lên bụng. Rồi Mật lại mơ hồ lo lắng khi cảm thấy bụng mình khang khác.
Rồi vào một ngày giáp tết, chồng Ân đột ngột ghé qua nhà. Tiếng gõ cửa gấp gáp trong đêm làm Mật choàng tỉnh.
“Ai đấy? Ai đấy?’’. Mật quýnh lên hỏi.
“Tôi đây. Bắc đây”.
“Giời ơi! - Mật lập cập kêu lên - Anh Bắc…”.
Khi cánh cửa vừa mở thì người lính ùa vào và ôm lấy Mật.
“Anh Bắc - Mật hoảng hốt - Mật đây. Em Mật đây mà”.
Vòng tay người lính vội rời ra và thõng xuống.
“Ân đâu?”.
“Chị Ân đi Kim Bôi sáng nay cùng mấy chị trong xóm, xem có lá dong rẻ hay quýt cam gì mua về bán chợ tết. Em ở nhà trông nhà”.
“Bao giờ Ân về?”.
“Có lẽ mai chị Ân về, thế bao giờ anh đi?”.
Bắc đứng lặng không trả lời. Gió sông lạnh thổi xốc vào ngôi nhà tranh bé bỏng.
“Vào nhà đi anh, để em đốt lửa cho ấm”.
Một lát sau ngọn lửa đã chui qua những cành củi khô và vươn lên.
“Em nấu cho anh bát cơm nhé?”.
“Anh ăn rồi. Liệu ngày mai Ân có về kịp không?”.
“Chị ấy sẽ nóng ruột mà về. Sao các anh biệt tin lâu ngày thế? Nhà em ra sao rồi anh?”. Mật rụt rè hỏi và đợi câu trả lời.
“Sau ngày sang sông, chúng tôi sống cùng nhau ở một đơn vị được một tháng. Sau đó mỗi người đi một đơn vị. Nghe đâu Ngữ đang ở Bắc Cạn. Ở nhà không nhận được tin gì của nó à?”.
“Không - Mật nói như khóc - Em và chị Ân tết nào cũng mong các anh về. Năm nào hai chị em cũng gói nhiều bánh…”.
“Mình sắp đánh lớn. Đơn vị tôi đang chuyển quân lên mặt trận Hoà Bình. Hai chị em ở nhà có khoẻ không?”.
“Chúng em thế nào cũng chịu được. Chỉ lo cho các anh hòn tên mũi đạn. Sao anh về chẳng tin cho chị Ân biết trước?”.
“Đang kháng chiến mà cô cứ làm như…”. Người lính cười.
Gió thổi mạnh hơn qua những tàu chuối ngoài vườn. Sương như xuống dầm dề trên mái rạ. Ngọn lửa như ngái ngủ cháy lờ đờ trên củi.
“Anh đi ngủ một tí đi, kẻo mệt - Mật nói - Hết canh ba rồi”.
“Cô đi nằm đi. Tôi ngồi đây. Cũng sắp sáng rồi”.
Mật không trả lời. Chị ngồi im lặng nhìn những mẩu than nhấp nháy như những ngôi sao mùa đông. Giá như đêm nay Ân ở nhà thì Ân hạnh phúc biết bao nhiêu. Và giá như người kia là chồng chị. Nghĩ đến đó máu trong người chị dào lên chảy xiết. Chị thấy mặt mình nóng rát. Chị nhớ đến cơn mơ thường gặp và chị muốn khóc.
“Chúng em ở nhà khổ lắm - Mật thổn thức - Giá như có mụn con thì đỡ khổ”.
“Sau hoà bình chúng tôi sẽ về cả thôi. Rồi không có sức mà đẻ”.
Người lính nói và cười lớn. Mật cũng bật cười theo. Nước mắt chị giàn giụa. Ngọn lửa cuối cùng đã chui vào đống than đỏ và ngủ vùi trong đó. Mật ngồi trong bóng tối, miệng lẩm nhẩm: “Chị Ân ở đâu về mau lên. Anh Bắc đang đợi, chị Ân ơi, mau lên”.

*
* *


Cái gốc tre đã cháy hết. Hai bà lão vẫn ngồi im lặng. Hai gương mặt sạm đen và nhăn nheo như nằm bất động trên bốn cái đầu gối xương xẩu. Một con chuột nhắt bé như cái hạt mít từ góc bếp bò ra. Nó rón rén leo lên chiếc mâm gỗ. Rồi bất chợt nó chảy phốc lên miệng bát làm chiếc bát ăn cơm đổ kềnh.
- Bà ngủ rồi đấy à? - Bà lão Ân quay sang phía bà lão Mật hỏi.
- Ngủ đâu mà ngủ - Bà lão Mật mở mắt nói và lại nhai tiếp miếng trầu còn ngậm trong miệng - Ăn miếng trầu thế mà say say.
- Chiều bà có che kĩ cái chuồng gà không?
- Che rồi. Tôi cho uống cả nước vôi trong. Sương thế này sợ rù mất mấy con gà.
- Mẹ Phấn nó bảo tết năm nay đón hai cụ vào nhà nó ăn tết. Nó bảo hai cụ sống ngoài bãi như ma ấy.
- Ăn uống được gì đâu mà vào. Nó còn con cháu, khách khứa thì giờ đâu mà hầu mình. Thôi chết, tôi bỏ quên cái rổ có cái áo giặt dở lúc chiều.
- Bà còn lú lẫn hơn cả tôi - Bà lão Ân nói.
- Chiều đang giặt dở thì bà Mến tưới ngô trên bãi gọi nói chuyện. Thế rồi cứ quên mà về. Tôi phải xuống bến tôi lấy.
- Thôi. Mưa gió tối tăm thế này, đi rồi ngã ra đấy. Có cái rổ rách với cái áo nát có ma nó lấy.
Nhưng thấy bà lão Mật cứ khăng khăng đòi đi, bà lão Ân với lấy cái nón đưa cho bà lão Mật và dặn: “Đi chầm chậm thôi, bà ạ!”.
Trời đêm mênh mang. Bà lão Mật lom khom xuống bến. Bà đã đi không biết bao nhiêu lần trên con đường này. Và con đường đã ăn sâu vào trí nhớ bà.
Khi bà cắp rổ định quay về thì có tiếng cá quẫy mạnh sát bờ. Một vật gì đó vô tình rơi vào kí ức bà tựa như cái quẫy của đuôi cá. Và rồi những dòng sóng kỉ niệm xưa loang ra, loang mãi, bà từ từ ngồi xuống nhìn dòng sông trong đêm. Nơi đây, mấy chục năm về trước bà đã tiễn chồng theo bộ đội sang sông. Và chính nơi đây, bà đã tiễn Bắc đi trong lần người lính ghé qua nhà không gặp vợ mình.

*
* *


Suốt cả ngày hôm ấy vẫn không thấy Ân về - Bao nhiêu kỉ niệm đều mờ đi vì tuổi tác, nhưng những đêm như thế lại vẫn bám dai dẳng trong kí ức bà lão Mật - Hôm ấy, cứ thỉnh thoảng Mật lại chạy lên mặt đê ngóng về phía xa. Buổi tối ăn cơm xong Bắc nói:
“Khuya tôi phải đi”.
“Mai Ân về thôi - Mật nói như van - Tối mai anh hãy đi”.
“Không được đâu. Tối nay tôi phải có mặt ở nơi đóng quân”.
Khoảng chín giờ tối thì Bắc lên đường. Mật tiễn Bắc xuống bến sông. Khi đến sát mép nước Bắc quay lại. Anh đặt bàn tay lên vai Mật. Những ngón tay người lính mỗi lúc như bấu chặt vào vai chị. Mật thấy rét run lên, hai hàm răng chị va vào nhau lập cập.
“Anh đi nhé - Người lính thì thào - Hai chị em ở nhà thương nhau. Anh và Ngữ sẽ sớm về”.
Bắc đi được một tiếng đồng hồ thì Ân về. Nghe tiếng Ân gọi cửa, Mật run bắn và oà khóc.
“Chị Ân ơi, anh Bắc về, Bắc về”.
“Đâu, đâu? Anh ấy đâu?… Đâu?…”.
“Anh ấy đi rồi. Anh Bắc chờ chị suốt cả đêm qua. Anh ấy vừa sang sông”.
Bó lá dong lớn và sọt quýt đồi đổ xuống như người ngã.
“Anh ấy đi lâu chưa? - Ân hổn hển - Anh ấy đi lối nào?”.
“Anh Bắc lội qua bến nhà mình”. Vừa nói Mật vừa nắm tay Ân đi như chạy xuống bến. Đến bờ sông, Ân giật tay chị ra khỏi bàn tay Mật và lội ào ào xuống nước.
“Chị ơi! Anh ấy đi xa rồi - Mật đứng trên bờ ôm ngực khóc gọi - Đừng sang sông nữa, chị ơi”.

Minh họa: Ngô Xuân Khôi

Mật ngồi thụp xuống sát bờ cát ướt lạnh và bưng mặt nức nở cho đến tận khi chị nghe tiếng khoả nước mệt mỏi vào bờ. Ân rét ướt nghiêng ngả bước lên bờ. Hai người đàn bà trẻ đứng im lặng trước nhau. Rồi cả hai lao vào ôm lấy nhau nức nở. Gió sông như ấm hơn thổi dạt qua bãi về phía chân đê. Và đâu đó thoảng mùi cỏ lên mầm hăng hăng.
Tết năm ấy, Ân và Mật vẫn lặng lẽ gói nhiều bánh. Nhưng tết năm ấy, cả hai người lính của họ vẫn không về. Sang giêng, hai người đàn bà mấy lần mang bánh luộc lại và mấy lần nhìn nhau khóc.
Mấy năm sau ngày hoà bình lập lại, Mật nhận tin báo tử chồng. Nhưng tết đến họ vẫn gói nhiều bánh. Trong mơ chị vẫn rụt rè đặt tay lên bụng mình và thấy khang khác. Nhiều lần Ân khuyên Mật nhận lời một người đàn ông nào đó. Những lần như thế, Mật chỉ nở một nụ cười xa xăm và ngơ ngác như nụ cười của một người vừa thức sau giấc ngủ trưa.
Và sau đó thì Mật nói với Ân: “Bao giờ anh Bắc về với chị thì em đi lấy chồng”.

 

*
* *


Đợi lâu không thấy bà lão Mật về, bà lão Ân sốt ruột ra đầu ngõ hướng xuống sông gọi:
- Bà Mật ơi! Bà Mật.
- Tôi về đây.
- Đã bảo đêm hôm rồi còn mò xuống - Bà lão Ân cằn nhằn - Già rồi còn thích làm tội thân, tội mình.
Nói vậy nhưng bà lão Ân vẫn đứng lại đợi cho đến khi bà lão Mật lên đến đầu ngõ.
- Vào đi ngủ thôi bà ạ - Bà lão Ân nói - Tôi đau hết cả lưng rồi.
Gian nhà nhỏ trong đêm như rộng mênh mông. Hai bà lão nằm quay lưng vào nhau và thỉnh thoảng lại khúc khắc ho.
- Bà vẫn nhai trầu à? - Bà lão Ân hỏi.
- Tôi nhai cho nó ấm.
- Nhai mãi thế mà không mỏi mồm.
Đâu đó trên mái nhà có tiếng chuột đuổi nhau rích rích. Và từ cỗ áo quan có tiếng mọt nghiến gỗ trèo trẹo.
- Bà có cầm bao diêm đấy không? - Bà lão Ân hỏi.
- Có, làm gì nữa bây giờ?
- Tôi xem con mọt. Có khi lúc mình chết thì mọt nó cũng cắn nát cỗ áo ra rồi.
- Nó nằm trong gỗ chứ nó lại chui ra cho bà xem.
Nói vậy nhưng bà lão Mật vẫn lấy bao diêm đưa cho bà lão Ân. Bà lão Ân bật diêm châm đèn soi cỗ áo quan. Bà nghiêng đầu nghe ngóng một lúc rồi lấy tay đập đập vào cỗ áo. Tiếng mọt chợt im bặt. Bà đứng bên cỗ áo quan cho đến khi yên tâm là con mọt không còn dám cắn nữa thì mới tắt đèn lên giường.
Gần sáng những ngọn gió cuối đông tuy còn lạnh nhưng đã chơm chớm xuân thổi rạo rực qua ngôi nhà của hai bà lão. Và bà lão Mật lại mơ thấy người lính trở về. Nhưng khi nhìn rõ mặt thì bà nhận ra đó không phải là Ngữ mà là Bắc.
Vào đầu năm 1968, Ân nhận được thư Bắc gửi về. Trong thư anh nói đang đóng quân ở Quảng Bình bên cạnh dòng sông đẹp như sông Đáy quê anh.
“Chị Ân ơi - Mật cuống quýt - Chị đi vào tìm anh ấy đi. Đi ngay đi. Mọi việc đồng áng cứ để em”.
Suốt mấy ngày đó, cứ chốc chốc Ân lại mang thư chồng ra đọc và khóc. Cuối cùng chị quyết định khăn gói đi thăm chồng.
Nhưng cuộc đời trớ trêu. Ân đi được dăm ngày thì Bắc về.
“Anh Bắc, anh gặp chị Ân không? - Mật hốt hoảng hỏi khi chị linh cảm thấy điều không bình thường - Chị Ân vào Quảng Bình tìm anh rồi”.
“Tìm anh hả? Đi bao giờ?”.
“Chị Ân đi được dăm ngày rồi!”.
Nghe Mật nói, Bắc đứng chết lặng. Mãi lâu sau anh mới nói:
“Người lính nay đây mai đó, tìm làm sao được”.
“Anh Bắc ơi, lần này anh phải ở nhà chờ chị ấy - Mật nói và khóc - Em không cho anh đi đâu cả. Anh Bắc ơi! Anh Ngữ hi sinh rồi”.
“Ngữ hi sinh rồi ư! Hi sinh bao giờ? Ở đâu?”.
“Có giấy báo tử rồi anh ạ. Hơn ba năm rồi”.
Đêm ấy Bắc nói với Mật:
“Sáng sớm mai anh phải đi rồi. Lần này anh đi rất xa và có lẽ lâu lắm”.
“Không anh phải ở nhà chờ chị ấy về thì đi đâu thì đi. Nếu không chị ấy chết mất”.
“Không làm sao khác được Mật ạ. Anh phải đi”.
Khoảng canh tư thì Bắc khoác ba lô lên đường. Mật tiễn Bắc lên đến mặt đê. Bỗng Mật ôm lấy Bắc và khóc nấc lên.
“Anh Bắc ơi! Em thương chị Ân quá. Em thương anh hu… hu… và thương cả thân em nữa. Nếu anh Ngữ về được một lần thì em đỡ khổ, đỡ ân hận biết bao. Anh Bắc ơi, sao em không phải là chị Ân, sao anh không phải là anh Ngữ, hả anh? Hu… hu…”.
Bắc không nói được gì. Anh ghì Mật vào lòng. Cả hai người run lên. Mật vội đẩy Bắc ra và vội vã nói:
“Anh đi đi, anh Bắc, anh đi đi”.
Nói xong, Mật chạy nhào xuống chân đê. Chị vừa chạy, vừa ngã vừa nức nở gọi tên Ân và tên chồng chị.

*
* *


- Này, bà Mật. Bà Mật, ngủ mê đấy à? - Bà lão Ân lay gọi bà lão Mật - Kêu gì mà khiếp thế.
- Tôi ngủ… mê à? - Bà lão Mật ú ớ hỏi - Sáng chưa bà?
- Còn chán.
- Bà cho tôi mượn bao diêm - Bà lão Mật ngồi dậy nói - Tôi dậy đi tiểu cái.
Bà lão Mật lục đục tìm diêm và bật diêm. Ngọn đèn dầu toả một quầng sáng vàng ấm trong nhà.
- Bà dậy đi tiểu.
- Không.
- Già thì phải chịu khó mà đi. Không nhỡ ra quần, ra áo khai lắm.
- Ôi giời! - Bà lão Ân cựa mình và chép miệng - Bệnh già nó thế, ai mà muốn.
Khi gà trong xóm bên kia chân đê thi nhau gáy ran thì hai bà lão lại tỉnh giấc. Bà lão Mật lại nhóp nhép nhai cái bã trầu vẫn ngậm trong miệng khi ngủ.
- Thế bà định tết này gói bao nhiêu bánh? - Bà lão Ân hỏi.
- Cứ bảo mẹ Phấn nó mua cho đủ lá gói ba chục cái. Mình thì ăn là mấy. Nhưng nhỡ có ai về…
Nghe bà lão Ân nói vậy, bà Mật ngừng nhai trầu và hơi nghiêng đầu về phía bà lão Ân như định nói điều gì đó. Nhưng bà lại thôi.
Và bên ngoài, những ngọn gió sông đã chơm chớm xuân đang rạo rực thổi qua ngôi nhà bé bỏng

Hà Đông, cuối đông 1992
N.Q.T

 

VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Cây thốt nốt quỳ trên núi Tưk-cot

Cây thốt nốt quỳ trên núi Tưk-cot

Tôi được nhiều lần sang Campuchia cùng các đội chuyên trách tìm kiếm, cất bốc, hồi hương hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hi sinh qua các thời kì chiến tranh... (HỒ KIÊN GIANG)

Nguyên mẫu trong hai truyện vừa đầu tay viết cho thiếu nhi của tôi

Nguyên mẫu trong hai truyện vừa đầu tay viết cho thiếu nhi của tôi

Khi viết cuốn Những tia nắng đầu tiên tôi đã hóa thân vào các em nhỏ học sinh lớp 6 của năm học 1969 - 1970 ở Hà Nội... (LÊ PHƯƠNG LIÊN)

Bà Minh của tôi

Bà Minh của tôi

Sống ở Hà Nội, trở thành một công dân có hộ khẩu đến nay đã hơn hai thập kỉ, nhưng chưa bao giờ tôi có cảm giác mình thuộc về Hà Nội... (ĐỖ BÍCH THÚY)

Đồng đội là nguyên mẫu trong các sáng tác của tôi

Đồng đội là nguyên mẫu trong các sáng tác của tôi

Có nhân vật chỉ là dáng dấp của nguyên mẫu, có nhân vật là nguyên mẫu đã sống và chiến đấu cùng tôi, suốt những năm tháng ở rừng... (VŨ NGỌC THƯ)