. NGỌC TẤN
Giữa đông, vừa mới lưng lửng chiều không gian đã xám ngoét một màu. Vừa ngồi vào mâm, mẹ tôi đã nhắc: “Cậu Soa hồi chiều lại lên cơn. Ăn vội lên rồi sang giúp bà canh chừng cậu”. Nén tiếng thở ra, tôi lua láo cho xong bát cơm rồi xách đèn đi.
Bao năm rồi cứ mùa đông đến là cậu nổi bệnh. Tiếng là điên nhưng lạ là không phá phách gì. Ban ngày cậu khoác cái chăn ngồi bó gối, đôi mắt đờ đẫn mặc định về một cõi bí hiểm nào. Đến bữa đưa cơm thì ăn, không chẳng bao giờ hỏi. Thế nhưng đêm đến cửa ngõ phải trông chừng, sểnh cái là cậu lẻn đi lang thang như mộng du, lỡ rơi xuống ao hồ thì khốn. Giấc ngủ tôi luôn chập chờn, đâm khó chịu là vậy…

Minh hoạ: Thành Chương
Tôi nghe mẹ kể ông ngoại mất hồi cậu Soa lên tám. Ông bị Tây bắt làm cu li đục đường hầm hỏa xa, bị đá đè chết. Bà ngoại góa chồng rất trẻ mà vẫn ở vậy cặm cụi làm lụng nuôi hai con. Mẹ tôi như bao phụ nữ ở làng không được đi học. Cậu thì được cho ra huyện trọ học trường của Pháp, thi đỗ sơ học yếu lược thì thôi không học lên nữa, mấy năm sau khi vẫn tồng ngồng tắm sông thì cậu bị bà bắt lấy vợ.
Vợ cậu tên là Tẹo, nhà cũng có của ăn của để trong làng. Là gái duy nhất trong gia đình tám con nên mợ Tẹo rất được cưng chiều. Cái tên thật đúng như người: vóc dáng nhỏ thó, gầy như que củi, tóc thì đét đẹt. Chẳng là hồi tản cư mợ bị sốt, phải cắt trụi tóc, từ đó không mọc ra được nữa. Họ hàng nhiều người băn khoăn nhưng bà bảo: “Đi coi bói, mạng cậu chỉ hợp với mợ thôi”. Ăn hỏi rồi, bị đám bạn trêu chuột sa chĩnh gạo, cậu về nhà tức đá thúng đụng nia. Bà tôi phát khùng, la toáng: “Mặt nó xấu chứ cái kia của nó không xấu đâu nhé. Tao đố mày thoát được nó”. Nghe thế, cậu tôi không có cách phản ứng nào hơn là trốn. Thấy mợ sang nhà, trốn. Bên nhà mợ có việc kêu, trốn. Thậm chí thấy mợ trên đường lập tức rẽ sang lối khác. Nhưng rồi có lẩn cách gì cuối cùng đám cưới vẫn được tiến hành. Hai bên thông gia ngồi với nhau hể hả: “Chúng nó như vung với nồi, cứ úp lại là xong hết”. Thế rồi đưa dâu, cậu mợ được đưa thẳng về căn nhà gỗ ba gian ông nhạc đã dựng cho trước đó. Đề phòng cậu bỏ trốn, bà tôi cẩn thận khóa cửa bên ngoài rồi ra về với vẻ mặt đầy mãn nguyện: “Sướng thế lại còn làm bộ làm tịch. Thử hỏi cả làng này có ai được như nó không.”
Nhưng hôm sau mới tinh mơ mợ Tẹo đã hốt hoảng chạy sang tìm bà tôi, giọng ngắt quãng trong tiếng nấc: “Không biết anh Soa đi đâu rồi. Đêm qua cứ thấy anh ấy ngồi thức uống nước chè, con chờ mệt nên thiếp đi. Sáng ra tỉnh dậy mới biết anh ấy trèo lên mái nhà, dỡ ngói…” Bà tôi ngẩn ra một thoáng rồi cười khẩy: “Nó làm bộ trốn nhà đấy thôi, con cứ yên tâm”. Nhưng qua một rồi hai ba ngày cũng chẳng thấy bóng cậu đâu. Bấy giờ bà tôi mới hốt lên, huy động con cháu đi tìm. Giếng ao, đầm ngòi khua khoắng đủ cả... Cuối cùng thì mọi người phỏng đoán có lẽ bị ép duyên nên cậu phẫn chí bỏ nhà đi. Bà tôi vừa khóc vừa rủa cậu. Mợ Tẹo cũng khóc đòi về lại nhà nhưng cha mợ kiên quyết: “Mày bây giờ là gái có chồng, bao giờ biết nó sống chết rạch ròi đã hẵng hay…”
Thời gian trôi đi trong nặng nề. Ba tháng sau bỗng có thư của cậu về với mấy dòng vắn tắt: “Con không yêu Tẹo mà mẹ cứ ép. Con định vào Nam nhưng giữa đường gặp một đơn vị bộ đội nên xin theo luôn. Mẹ đừng lo gì cho con. Về phần Tẹo, tuy bị cưới hỏi nhưng vẫn là con gái. Mẹ hoàn lễ để cô ấy đi lấy chồng và xin lỗi gia đình bên ấy hộ con…”
Cả ngày hôm đó mợ Tẹo ngồi khóc. Rồi mợ đem tất cả quần áo, sách vở trong cái va li mây của cậu ra phơi. Bà tôi đi lại thiểu não. Bà làm mâm cơm họp gia đình bàn chuyện. Họ hàng hai bên tranh cãi ồn ào. Người bảo cho mợ Tẹo đi lấy chồng là hợp lẽ. Người bảo như thế là vi phạm chính sách hậu phương quân đội… Lời qua tiếng lại, cuối cùng hai họ nhất trí để mợ tự quyết định. Mợ run run đứng lên cố kìm tiếng nấc: “Cũng là do duyên kiếp không ra gì mới nên nông nỗi này. Trời đã định, con xin về ở bên nhà con. Con không lấy chồng nữa. Sau này anh Soa có về hay không thì cũng thế thôi…”
Thời gian cứ thế cuốn đi, đến năm 1965, sau sự kiện Mĩ ném bom miền Bắc, không khí chiến tranh ở quê tôi bắt đầu ngột ngạt. Người trẻ khỏe đi bộ đội đi dân công hỏa tuyến hết, làng xóm ngày một vợi đi. Những người như mợ Tẹo bỗng trở thành nòng cốt của xã. Mợ vào dân quân, ngày lên trận địa trực chiến, tối thì chèo đò đưa bộ đội hành quân vào Nam. Lao vào công việc, mợ bỗng trở nên một con người khác. Mợ trắng ra, duyên dáng hẳn lên. Sự thay đổi lạ lùng ấy khiến ai cũng phải ngạc nhiên. Một lần ông xã đội trưởng vuốt má mợ đùa: “Em bây giờ trông cứ mai mái như vợ anh hồi mới cưới”, liền bị ăn ngay một cái tát nảy lửa. Bà tôi thì hỉ hả: “Thằng Soa bây giờ mà về, nhìn con thế này có bố bảo cũng chẳng dám chê!”
Nhưng sau lá thư đầu tiên, cậu Soa bặt tăm. Chẳng rõ cậu bây giờ ở phương nào, sống hay chết. Cứ mỗi lần có giấy báo tử về làng là bà tôi lại ngồi thừ ra. Tuy vậy ngoài miệng bà vẫn cứng cỏi: “Thằng Soa không thể chết được”. Linh tính người già quả không ai cắt nghĩa được. Gần tết năm 1970, trong ánh nhập nhoạng của một ngày rét mướt cậu Soa hiện ra. Bà tôi tưởng hồn cậu tìm về nên ngất xỉu bên bếp. Cả làng náo động như cháy nhà. Mợ Tẹo đến nhưng không vào nhà, cứ đứng sau chuồng lợn mà khóc. Cậu Soa đi ra nhìn thấy mợ thì khựng lại như trời trồng. Mợ ngẩng lên nhìn lướt qua cậu rồi òa khóc, chạy vụt đi…
Hôm sau bà tôi cho thịt ngay con lợn duy nhất trong chuồng, mời họp họ và ăn mừng. Không khí nghiêm trọng. Ai muốn nói cũng phải giơ tay như họp thôn. Nói dài và nhiều nhưng tựu trung chỉ kêu gọi cậu mợ hàn gắn. Cậu Soa ngồi nghe đờ đẫn. Mợ Tẹo thỉnh thoảng lại bật lên tiếng thút thít. Chờ mọi người nói hết cậu Soa mới đứng lên. Cậu nói rằng chính cậu cũng ngạc nhiên với số phận mình. Đã được sống trở về, mợ Tẹo lại vẫn chờ. Tấm lòng của mợ khiến cậu kính trọng đến mức đau đớn. Tiếc thay cậu lại không hàn gắn được với mợ như ý muốn mọi người. Cậu không còn khả năng làm chồng. Nói rồi cậu đưa cho mọi người xem giấy chứng nhận thương tật và nói: “Tôi đã hành hạ Tẹo bao nhiêu năm, chẳng lẽ bây giờ lại tiếp tục hành hạ cô ấy nữa sao?” Bà tôi nghe khóc rống lên như con nít. Ông trưởng họ cũng khóc khiến tất cả mọi người cùng khóc. Đám mừng thoắt tang thương như một đám ma, chẳng ai thiết ăn uống, lũ lượt kéo nhau về.
Tỉnh táo được mấy hôm thì cậu tôi bắt đầu giở chứng. Mợ Tẹo như không cần biết đến những gì cậu nói, vẫn cứ giữ thói quen thường ngày qua lại với bà tôi. Bất chợt một hôm vừa thấy mợ, cậu bỗng nhảy cẫng lên, hoa chân múa tay như thượng đồng. Mợ Tẹo sợ quá bỏ chạy. Cậu cầm cây gậy đuổi theo réo tên tục của cha mợ ra chửi. Mợ Tẹo khiếp vía. Từ hôm đó nếu qua với bà tôi, mợ phải lén lút tránh mặt cậu. Ít lâu sau mợ được huyện nhận cho làm chân tạp vụ cơ quan…
Tôi nhắc cái chõng tre chắn ngang cửa rồi cài chốt cẩn thận. Như thế, cậu có muốn ra ngoài thì phải bước qua tôi. Như mọi lần cậu vẫn ngồi bó gối trên giường, nhìn mọi cử chỉ của tôi bằng đôi mắt lạnh lẽo. Nhưng đêm nay cái nhìn ấy bỗng dưng khiến tôi thấy rợn. Mấy hôm trước bà tôi đi coi bói ở đâu về nói cậu điên là do cõi âm. Lúc ở Tây Nguyên cậu bị ma ám. Con ma ấy đã bắt cậu làm chồng, nó khiến cậu không được gần gũi với người đàn bà nào nữa. Tin lời thầy, cứ mỗi tối bà tôi lại múc nước tiểu dội khắp các vách nhà để ngăn nó vào với cậu.
Dẫu chẳng tin ma quỷ nhưng đêm đông tối như xắn được thành miếng và tiếng mưa rơi ngoài hiên rỉ rắc làm tôi liên tưởng lung tung. Trong giấc ngủ chập chờn, tôi mơ thấy một con quái vật mình người, đầu gà mái quắp lấy cậu tha đi. Tôi ra sức kéo lại. Hai bên giằng co nhau. Tôi yếu hơn cuối cùng phải buông tay, lăn lông lốc từ mái nhà xuống sân như một khúc gỗ. Tôi hét lên kêu cứu. Bừng tỉnh, hóa ra bà đang cầm tay tôi mà lay. Trời đã mờ sáng.
“Ngủ như chết thế! Cậu mày đi đâu rồi?”
Tôi bổ sang giường cậu. Tấm chăn không còn hơi ấm. Vậy là cậu đi đã khá lâu. Cửa vẫn chốt, cậu ra lối nào?
“Hú ba hồn bảy vía thằng Soa, ở đâu thì về với vợ, với mẹ mày.”
Bà tôi ra trước ngõ gào lên. Hàng xóm đổ đến. Ông trưởng thôn lập tức chia người bổ đi tìm. Tôi không theo một toán nào do ông cắt đặt mà một mình đi dọc đường tàu. Tôi đoán cậu không ngã xuống ao hồ đâu đó như mọi người nghĩ mà chỉ đi theo đường tàu thôi. Đường tàu bỏ hoang đã lâu, chỉ còn một vệt đá lổn nhổn. Cây cứt quạ, cỏ tranh ken đầy lối đi. Gió bấc rít căm căm. Đá chọc vào bàn chân buốt nhói. Vừa đi vừa chạy, mãi xế trưa tôi mới nhìn thấy cậu ngồi ủ rũ trên thành chiếc cống bắc qua con suối sâu nhìn chóng cả mặt. Thật lạ lùng là cậu đi ban đêm, phải qua một quãng đường làng lầy lội là thế mà quần áo không một vết bùn. Tôi đập mạnh lên vai cậu mới choàng tỉnh. Không nói một lời, cậu ngoan ngoãn theo tôi đi về.
Nằm thiêm thiếp đến ngày thứ tư cậu mới ngồi dậy được.
Một ngày, khi những tia nắng ấm áp mùa xuân bắt đầu ló rạng, tôi đặt chiếc chõng tre trước hiên nhà cho cậu ngồi sưởi nắng. Cậu chăm chú nhìn những khóm rau xanh mướt như mới thấy lần đầu. Thấy cậu có vẻ tỉnh táo, tôi quyết định hỏi:
“Này cậu, hôm cậu bỏ nhà đi, đường lầy lội, trời tối như bịt mắt, làm sao quần áo cậu chẳng lấm bùn?”
Cậu Soa liếc tôi cười ranh mãnh:
“Thì cậu đi bằng đầu mà!”
Tôi kinh ngạc, nhưng vẫn hỏi dồn:
“Thế cậu muốn đi đâu mà lại theo đường tàu?”
“Cậu muốn vào Nam, để tìm…”
“Tìm ai, đơn vị cậu à?”
“Không, tìm vợ cậu!”
Tôi há hốc miệng ngạc nhiên. Không, đang hoàn toàn tỉnh táo cơ mà. Chợt nhớ chuyện bà tôi đi xem bói. Linh nghiệm từ bí mật này chăng. Dường như thấy mình lỡ lời, cậu im bặt nhìn tôi bối rối. Tôi thấy cần phải hết sức khôn khéo để dụ cho cậu nói ra điều bí mật này.
Suốt mấy ngày tôi phải tìm cách tỉ tê thuyết phục cậu kể ra sự thật. Tôi thề độc “Nếu cậu không muốn ai biết thì dù chết cháu cũng không nói.” Cậu Soa ngẫm nghĩ lúc lâu rồi mới gật đầu.
*
* *
Với nỗi oán hận cuộc hôn nhân ép buộc, Soa định bụng sẽ đi thật xa, chừng nào cái cô Tẹo cùng làng kia bỏ đi lấy chồng mới chịu về. Đến Đà Nẵng, đang bơ vơ chưa biết đi đâu thì anh gặp một đơn vị bộ đội. Lân la làm quen, nghe anh kể nỗi niềm, họ hỏi có muốn gia nhập không. Mừng quá, Soa đồng ý ngay. Được mấy tháng thì đơn vị được điều động lên Tây Nguyên. Biết Soa có chút tiếng Pháp, đơn vị biên chế anh vào đội vũ trang tuyên truyền. Bấy giờ phần lớn đồng bào dân tộc không ai biết tiếng Kinh. Muốn tiếp xúc được với họ phải thông qua một số người biết nói tiếng Pháp. Tuy vậy số này rất ít ỏi. Cách phổ biến của ta là nằm phục bên bìa rẫy, thấy ai thì bí mật tiếp cận rồi “bắt sống” để tuyên truyền, chủ yếu bằng điệu bộ, thật trầy trật. Nhưng cứ kiên trì mỗi ngày một ít, cuối cùng cũng gây dựng được cơ sở.
Với vốn tiếng dân tộc bản địa và kinh nghiệm vận động quần chúng, năm 1954 Soa được chỉ định ở lại nằm vùng. Tình hình đen tối bắt đầu từ năm 1959. Với những chiến dịch tố cộng ác liệt, cơ sở bị địch đánh rã gần hết. Cán bộ phải dạt ra rừng. Làng Leng, địa bàn Soa được phân công gây dựng lại phong trào cũng bị địch kìm kẹp nghiêm ngặt. Không thể vào nổi làng, cũng chưa tìm được ai để tiếp cận, mười ngày rồi anh chỉ có rau rừng và măng luộc chấm muối. Ruột gan như có ai cào xé, mỗi ngày lại rời nơi ở một lần, mọi dấu vết xóa thật kĩ.
Một hôm vừa mới ăn xong bữa, Soa bỗng thấy trong người ngây ngấy sốt. Trong mơ màng anh chợt nghe tiếng chân người. Vừa kịp núp vào tảng đá thì đã thấy một ông già và một cô gái Bahnar đi đến. Họ nhìn quanh một thoáng rồi đi đến túp lều lá cây của anh ngồi xuống. Soa nín thở rón rén đến gần xem họ làm gì. Ông già lấy miếng lá chuối mà anh đựng muối chấm rau áp lên đầu gối một lúc rồi đưa cho cô gái. Cô gái cũng áp lên đầu gối mình một lúc thật lâu rồi mới vứt đi. Soa biết họ đói muối nên làm như vậy cho đầu gối khỏi run, trong khi gói muối anh vẫn để ngay trước mặt. Anh bỗng xúc động đến nghẹn ngào. Nếu không phải cơ sở của ta thì chắc hẳn cũng là người tốt đây. Nghĩ vậy anh mạnh bạo bước ra. Ông già sững người một thoáng rồi chồm tới ôm riết lấy cổ Soa: “Cán bộ ơi, Mĩ Diệm giết người nhiều quá, tao cứ tưởng cách mạng chết hết rồi!”
Vậy là từ đó, qua già Nưn, anh đã có mối để gây dựng lại cơ sở. Già Nưn vợ đã chết, chỉ có mỗi con gái tên là H’Nhen này. H’Nhen vừa mười tám mùa rẫy, mập mạp, đôi mắt tròn to, đen thẫm. Cứ ba ngày một lần, cha con già Nưn thay nhau đưa gạo, thức ăn ra để vào hốc cây đã hẹn để Soa tới lấy. Những lúc tình hình yên ổn, H’Nhen đưa thẳng vào lều. Cô nán lại hỏi đủ thứ chuyện, nào thì làng anh có ở gần cái hồ to (biển) không, người ta bắt vợ, cưới chồng thế nào, có cúng Yang không, chết có bỏ mả không... Soa trả lời cặn kẽ mọi điều. H’Nhen nghe chăm chú rồi thốt lên: “Cái làng anh đẹp thế mà lại phải bỏ lên đây nằm rừng, nhịn cơm nhịn muối!” Soa cười xòa đáp: “Chỉ vì cách mạng muốn cho mọi cái làng đẹp như nhau thôi”.
Một hôm đưa gạo ra rồi, H’Nhen cứ quẩn quanh bên Soa. Cô đòi nấu cơm để cùng ăn. Đêm đã khuya mà cô vẫn chưa muốn về. Trăng lên. Rừng bừng sáng như vừa được tắm. Họ nhìn bếp lửa đã tàn và không còn biết nói gì. Chợt H’Nhen lẳng lặng bỏ đi. Đợi một lúc không thấy H’Nhen trở lại, anh cứ nghĩ cô đã về nhà. Nhưng anh vừa thiu thiu thì bỗng nghe tiếng bước chân H’Nhen. Mở mắt, anh bàng hoàng, cả người H’nhen rười rượi những trăng. Soa nghẹn thở nhìn H’Nhen khẽ khàng nhích tới. Rồi bỗng bất thần như một cơn lốc, cô ập vào anh. Mọi thứ bồng bềnh. Không còn chiến tranh, không còn cái chết rình rập bủa vây, chỉ có rừng và hai thân thể tươi ròng tắm đẫm ánh trăng…
Hôm sau, Soa quyết định phải thú thật với già Nưn. Trái với những gì anh lo lắng, già Nưn chỉ lặng lẽ bập từng hơi thuốc. Nhìn theo làn khói xanh lét thật lâu già mới chậm rãi: “Chắc Yang sinh ra con H’Nhen là để cho mày. Con mắt tao đã thấy từ rất lâu rồi!”
Lúc này, đánh hơi thấy phong trào đã nhen nhúm trở lại, địch tăng cường theo dõi làng Leng. Hành tung của cha con già Nưn khiến chúng nghi ngờ nhất. Một lần H’Nhen mang gạo tiếp tế cho Soa thì bị chúng bắt được. Dù không có tang chứng nhưng việc mang gạo ra rừng đêm hôm thì chỉ có tiếp tế cho Việt Cộng thôi. Và chúng bắt cha con già Nưn tra khảo cho ra “tên Việt Cộng” đang nằm vùng kia.
Đêm tháng mười một, gió lồng từng cơn hun hút, trời rét tưởng chừng cắt thịt cũng không biết đau. Chúng đốt một đống lửa lớn bên cạnh vũng nước trâu đằm rồi lùa dân làng Leng ra. Cha con già Nưn bị lột hết quần áo đưa đến bên đống lửa.
“Trời rét thế này bị nhấn nước có lạnh không? Chỉ chỗ tên Việt Cộng thì tức khắc được về nhà, lại được thưởng tiền.”
Già Nưn cười nhếch mép: “Rừng này chỗ nào lính quốc gia cũng giẫm mỏi cái chân mà không thấy Việt Cộng. Tui già rồi, cái chân con mắt chỉ ở trong nhà làm sao thấy.”
Tên sĩ quan cười gằn: “Được. Hãy chờ đấy. Còn con mọi ranh kia, mày có chỉ không. Tao cho mày một phút… Không nói hả? Chúng mày đâu, cho hai cha con nó cùng đi tàu lặn luôn thể!”.
Một thằng nắm gáy già Nưn. Một thằng xoắn tóc H’Nhen. Hai cha con bị kéo lê đến vũng nước. Chúng đạp sấp hai người rồi dìm đầu xuống. Xong lôi lại bên bếp lửa rồi tiếp tục hỏi “Việt Cộng đâu”. Cứ nghe tiếng “không biết”, chúng lại lôi đến vũng nước dìm xuống... Cứ tẩm rồi hong cho đến lúc vũng nước chỉ còn chút bùn dẻo quánh chúng mới dừng tay.
Sau trận khảo tra tàn ác mà không khai thác được gì, chúng đưa hai cha con lên giam ở nhà lao Pleiku. Soa được đơn vị rút về, phiên chế sang tỉnh đội. Tin tức về cha con già Nưn cũng bặt luôn từ đó.
Cho đến cuối năm 1969, anh bị một mảnh pháo chém vào đầu. Vết thương ác khiến anh phải ra Bắc điều trị…
*
* *
“Sao trong buổi họp gia đình cậu không kể thật chuyện đó?” - Tôi hỏi khi cậu Soa kể xong câu chuyện.
Ngồi thừ hồi lâu cậu Soa mới chậm rãi, giọng run trong nước mắt rân rân:
“Linh tính mách với cậu là H’Nhen vẫn còn sống… Và đã sinh con. Nhưng… cái nghĩa của mợ mày đối với bà và cậu lớn quá. Nói ra sự thật…, cậu sợ làm tổn thương mợ mày. Với lại bây giờ cậu đã là người điên dại. Hàn gắn lại chỉ là gánh nặng… Nên cậu phải làm ra thế để mợ mày đi lấy chồng khác.”
*
* *
Những ngày cuối tháng sáu năm 1972 là những ngày buồn thảm đối với gia đình tôi. Mợ Tẹo bị trúng bom lúc đang trên đường chuyển công văn cho huyện. Tin dữ đến, đang ngồi nấu cháo, cậu tôi ngã dụi vào bếp. Can dầu bên cạnh bị hất đổ, ngọn lửa trùm lên thiêu luôn căn nhà. Nghe tiếng kêu cứu của bà tôi, mọi người đổ đến thì cậu tôi chỉ còn là cái xác co quắp. Đám tang diễn ra luôn tối hôm đó. Vì sợ máy bay nên chỉ mấy người đưa vội cậu ra đồng. Bà tôi ngã lên ngã xuống không biết bao nhiêu lần. Cứ hờ đến câu “Soa ơi, con chết không đời không đoạn” là bà tôi lại ngất.
Từ lúc cậu mất, căn nhà bà tôi bỗng lạnh lẽo đến phát sợ. Cứ nửa đêm bà tôi lại hờ. Tiếng hờ làm tôi buốt lạnh xương sống. Tôi quyết định phải nói ra điều bí mật của cậu. Có thể vì chút hi vọng mong manh, may ra bà tôi có thể sống thêm vài năm nữa.
Bà ngoại khóc như mưa như gió, đấm ngực thùm thụp khi nghe tôi kể. Nhưng rồi như không tin nổi niềm hi vọng quá mong manh, bà tôi chỉ hừng lên được chút rồi lụi dần như ngọn đèn kiệt dầu. Hai năm sau thì bà cũng theo cậu. Lúc sắp mất, bà gọi tôi đến bên giường, bắt phải hứa là khi nào thống nhất thì hãy đi tìm giọt máu của cậu. Nhờ ông bà tổ tiên phù hộ, may ra…
*
* *
Ít năm sau ngày giải phóng, tôi tốt nghiệp đại học rồi được phân công vào Gia Lai công tác, có cơ hội để thực hiện lời hứa với bà ngoại. Không khó lắm tôi cũng tìm được làng Leng. Và điều kì diệu là tôi tìm được già Nưn và giọt máu của cậu - thằng Hưn.
Già Nưn kể thằng Hưn được sinh ra trong tù. H’Nhen gửi cho một người làng được địch thả ra trước mang về nuôi. Năm sau già Nưn được thả nhưng H’Nhen thì vẫn bị chúng giam cho đến chết, thân xác vùi quãng đồi đất đỏ nào chẳng rõ.
Tôi xin phép già Nưn đưa thằng Hưn về quê cha. Mấy năm sau nó được đi học thiếu sinh quân rồi thành sĩ quan. Năm nào vào dịp làng tảo mộ, nó cũng xin nghỉ phép về quê nội viếng mộ ông bà, cậu tôi và mợ Tẹo. Mỗi khi nghe tôi nhắc chuyện mợ Tẹo, nó lại ngậm ngùi: “Giá mà tìm được xác mẹ cháu, cháu sẽ đưa về đây cho ba người được ở bên nhau”. Họ hàng nhà tôi thì cứ tấm tắc: “Quả là một sự lạ, một cái hậu chưa từng được thấy. Thương thay cho bà Soa không còn sống để được thấy cái hậu này!”
N.T
VNQD