. VƯƠNG ĐÌNH KHANG
1.
“Đùng!”
Tiếng súng nổ đanh như tiếng đóng cây đinh sắt vào thân tàu. Cả xóm ven suối Tranh ai nấy đều giật bắn mình. Đàn bà con gái thì sợ rúm quéo, tức tốc dắt tay con nít chui xuống gầm giường, nép vô xó bếp. Đàn ông trai tráng thì đâm ra lo lắng, vài người can đảm, hồi hộp, lén ngó qua nơi phát ra tiếng súng coi có chuyện gì. Tụi Tây lại bắt bớ, càn quét chi nữa? Chỗ đó là nhà ông Hai Chơn mà.
Ông Hai Chơn - ông già gân của cái đảo Phú Quốc này. Ông ốm nhách, nhỏ thó, xương nhiều hơn thịt. Được cái ông già rất dẻo dai, lại tinh tường, nhạy bén. Đi săn với ông Hai thì khỏi nói, lúc về thế nào cũng khẳm heo rừng, thỏ, sa giông…, khiêng mỏi tay. Ngó sơ ông Hai cũng không có gì khác với mấy ông già xưa, cũng tóc trắng, râu dài, đầu quấn khăn rằn, hông đeo dao bảy tấc. Cũng cái nết vấn thuốc rê liền miệng, nói chuyện móm mém, hay chêm chữ Nho. Khác ở chỗ là ông Hai có bốn con chó.

Minh hoạ: Doãn Hoàng Kiên
Bốn con chó đặt tên theo màu lông: Phèn, Cò, Mực, Đốm. Con nào con nấy có linh tính, mắt sáng, ngực nở, eo thon, chân cao, tai vảnh. Giống thuần chủng Phú Quốc, ông Hai nuôi từ lọt lòng, lớn lên bầy chó khôn lanh lạ thường. Có con biết đi chợ giùm chủ, có con biết đi tuần tra quanh vườn, có con còn biết đi kêu thầy thuốc hồi ông Hai ngã bệnh nữa. Chỉ còn thiếu biết nói thôi, chớ bốn con đó không khác chi con cháu ông Hai. Chiều chiều người ta đi ngang, thấy ông già uống trà, vuốt râu chửi tụi chó ngoài vườn: “Ê ê, không có đánh em! Mày lớn làm vậy coi không được!” “Thằng Phèn, vô nhà lấy rổ khoai ra cho ông!” “Tao mà thấy mày tè bậy vô bụi bông một lần nữa, tao đánh què giò nha Mực!” Người ta phì cười, tưởng ông Hai đang dạy con dạy cháu.
Một khi bước vô rừng, bốn con chó hóa thành bốn tay thợ săn thiện chiến. Tụi nó thính mũi, đánh hơi từ xa tít, chỉ cần một con thú nào bước vô vòng tròn rà soát là sẽ bị tụ lại bao vây, xa luân chiến cho mệt lừ rồi chịu trói. Ngay cả mấy con heo rừng to lớn cũng không chống lại được. Mà nói gì heo rừng, ngay cả rắn hổ mây còn thua tụi nó. Nhớ lần ông hổ mây dài phải mười thước, từ trong rừng chui ra hoành hành bá đạo ở đầu nguồn suối Tranh, nuốt heo gà chó mèo, phá nát ruộng rẫy. Tụi Tây sợ không dám lên. Ông Hai dẫn anh em cùng bốn con chiến khuyển bao vây, quần thảo nửa ngày trời. Ông hổ mây bị bốn con chó quay mòng mòng, mất hết phương hướng, cuối cùng bị trăm mũi tên, giáo mác ghim đầy thân mà thác. Sau lần đó, bốn con chó của ông Hai Chơn được coi là bảo khuyển.
Bây giờ dân làng đang trợn tròn mắt ngạc nhiên ngó ông Hai, kẻ không sợ trời sợ đất đang quỳ sụp mà khóc như mưa. Trong tay ông, con Đốm co giật, miệng sùi bọt máu, mình mẩy lem luốc vết đỏ. Bụng nó có một vết đạn rất lớn, lem nhem đáng sợ. Họ vây lấy ông già, hỏi ngọn ngành đầu đuôi. Ông già khóc rất lâu, tới cạn nước mắt. Đoạn ông vuốt mắt con vật, chửi um trong tiếng nấc:
“Tụi nó xông vô nhà tao, con tao nó giữ nhà mà. Rồi nó bắn. Mẹ cha tụi ác nhơn!”
Bà con thất thần. Bốn bảo khuyển nay đã mất một. Ông già như mất đứa con. Một bà lối xóm buột miệng:
“Rồi tụi nó kiếm ông làm chi?”
Ông già ngậm ngùi, giọng khàn khàn đã chuyển sang trầm đục:
“Mấy thằng Tây sắp mở hội đấu xảo trên đảo. Ba cái hội trời đánh. Rồi nó ép tao mang chó ra đua. Ai đời chó mà đem đua như ngựa. Tao đâu có chịu. Tụi nó nói không tham gia thì tăng thuế điền cả đảo lên…”
Bà con nghe thế xanh mặt mày. Thuế điền mọi năm đã vô lí lắm rồi. Ai cũng nai lưng ra mà mần, có bội thu mấy, đóng thuế xong cũng coi như vừa đủ. Mọi người còn đang than trời như bọng, nay tăng thêm nữa thì làm sao sống. Người ta hỏi dồn:
“Rồi ông Hai có chịu đua không? Chớ mà… chớ mà…”
“Tao biết! Tao biết! Đành phải gật đầu nếu không còn khổ sở nữa! Nhưng chúng đòi đua bốn con, tìm đâu một con để thay đây?”
2.
Bóng cây bàng cổ thụ vươn dài ra tới tận cổng chùa Sùng Hưng, che mát cả một khoảng đường đất nện. Người ra vô nhà chùa tấp nập, từ người Nam cho tới người Minh Hương, khói nhang nghi ngút. Con Nghín cà thụp cà ló trước cổng chùa, lấm la lấm lét. Nó nhác thấy một ông xì thẩu giàu có mặc áo gấm, mập mạp sang trọng. Hai tay ông khệ nệ khiêng rổ nhang đèn, bánh trái che mất mặt. Túi áo ngay hông phồng lên một cục nặng trịch. “Huýt!” Con Nghín chu mỏ thổi sáo, trong bụi rậm nhào ra một bóng đen, phi như bay về phía ông xì thẩu. Chỉ trong chớp mắt, ông mập ngã lăn cù, thúng đồ cúng văng tung tóe. Vạt áo rách một mảng lớn. Ông la oai oái, tới khi sờ tay mới biết gói tiền chuẩn bị cúng dường đã không cánh mà bay. Thằng nào con nào mà dám cướp cả đồ cúng? Ông lẹ mắt, nhìn xuyên qua đám đông, tuốt trong bụi rậm, có con chó đang nhả túi tiền lên tay đứa con gái rách rưới. Ông xì thẩu la bài bãi: “Cướp! Cướp! Giúp ngộ với!” Đứa nhỏ hoảng hồn, khều con chó thụp đầu chui vô lùm, lẻn sâu vô mé rừng bên cạnh.
Dân làng chộn rộn, tới khi người mất của hét lên thưởng tiền cho ai bắt được kẻ trộm người ta mới xúm nhau rượt theo.
Con Nghín chạy lẹ như chạch, hết luồn qua gốc cây, nhảy qua lạch, băng qua suối, rồi trèo qua gò thoăn thoắt. Nó chạy liên tục mười lăm phút liền, thở không ra hơi, mồ hôi túa ra như tắm. Sau lưng nó tiếng hò hét lúc gần lúc xa. Con chó tuy khỏe nhưng nương theo chủ đâu thể chạy trước. Lâu lâu nó lại quay đầu về phía đoàn người truy đuổi mà gầm gừ. Con Nghín thấy không ổn, kiểu này chắc bị gông cổ, đánh hèo nát đít. Nó ngó xung quanh, nhìn thấy thấp thoáng một mái nhà khuất sau bờ giậu râm bụt. Không suy nghĩ, nó lủi thẳng tới.
Khi nó vừa tới nơi bỗng nghe tiếng sủa đinh tai nhức óc. Từ đâu nhảy ra ba con chó dữ tợn, con nào con nấy nhe răng há lợi, ghê sợ vô cùng. Cả ba chia nhau đứng thành hình vòng cung, kẹp con Nghín ở giữa. Hai chân con Nghín mềm nhũn, sợ tới té bịch xuống đất, miệng mấp máy nói không nên lời. Đột nhiên con chó lem luốc của nó từ sau phóng ra chắn trước chủ. Một chọi ba mà coi mòi nó không hề run sợ, bốn chân đứng thẳng, ưỡn ngực hóp bụng, sủa tiếng nào vang tiếng đó. Cặp mắt màu vàng nâu sáng quắc, quét vô từng địch thủ.
Ông Hai trong nhà đang nằm dàu dàu, nghe động ngó ra rồi giật mình đánh thót. Ở đâu ra con chó đẹp quá vầy nè? Chân cẳng cao ráo, dáng như tuấn mã. Lông màu vàng vện cọp, xoáy lông kéo dọc hình mũi tên từ gáy tới tận đuôi. Lưỡi đốm đen, mũi thẳng, tai đứng. Đuôi cong vút như cánh cung, khuỷu chân trước cao hơn chân sau. Đời ông chưa từng gặp con chó nào uy dũng như vầy.
Lúc ông Hai nhào ra ngăn bầy chó không cắn càn cũng là lúc dân làng đuổi kịp. Con Nghín ngồi xụi lơ giữa sân, rồi như chợt tỉnh, chui tọt ra núp sau lưng ông Hai. Ba con bảo khuyển nghe lệnh chủ ngồi yên ngay ngắn thẳng hàng, riêng con chó vằn vẫn còn gầm gừ hầm hè chưa chịu thôi.
Dân làng tràn vào khoảng sân rộng. Họ đều quen biết và kính nể ông Hai Chơn từ vụ bắt rắn hổ mây nên không ai dám manh động. Lúc lâu, một người lễ phép bước ra nói:
“Ông Hai, tụi con rượt đứa ăn trộm tiền…”
Ông Hai Chơn tiếp chuyện người ta mà mắt vẫn liếc con chó vằn. Ổng hiểu cơ sự, nhưng tính làm sao chớ không để vuột con chó này được. Đúng lúc ông cần con khác thế vào chỗ con Đốm bị bắn chết thì trời mang con chó vằn này tới. Như vầy là trời biểu ông phải cứu đứa nhỏ, phải thâu nhận con chó rồi. Ông từ tốn mà nói:
“Dân làng đừng nóng. Đứa nhỏ này nghèo khổ, không ai dạy bảo mới đi làm chuyện bậy bạ.”
Rồi ông quay qua con Nghín: “Bây giờ con ăn trộm bao nhiêu tiền thì trả ra đây, khoanh tay xin lỗi để người ta thương tình tha tội!”
Con Nghín quỳ mọp dập đầu bịch bịch, hai tay dâng cái túi gấm lên cao. Dân làng đuổi theo toàn đàn ông trai tráng, thấy đứa con gái nhỏ như vậy thì không muốn làm dữ nữa.
3.
Con bé lang thang không nhà cửa được ông Hai Chơn nhận nuôi thì mừng lắm. Nhưng nó đã quen thói thô tục, vốc cơm bằng tay, thức ăn rơi vãi khắp bàn; nói năng bỗ bã, không dạ thưa lễ phép. Ông Hai thì coi trọng lễ tiết. Nghèo thì nghèo, giấy rách phải giữ lấy lề. Có đâu con gái mà như vậy, ông bực lắm. Ông phải gò lại cho Nghín từng nết đi đứng nói năng.
Lúc ông hỏi ba má con đâu, con Nhín nói gọn hơ: “Đắm tàu, chết hết!” Hỏi tới con chó, nó biểu lụm được ngoài bãi Dài, chắc ai đó không nuôi nên quăng ở đó. Ông Hai Chơn bắt đầu huấn luyện con Cọp. Ông dùng mọi cách, từ nghiêm khắc tới dụ ngọt mà nó vẫn chỉ đi theo con Nghín. Dạy bài đứng hai chân, nó trơ ra. Quẳng đồ vật, kêu đi nhặt, nó ngó rồi lăn ra nằm ngủ ngon lành. Bắt ngủ ở nhà sau, tối nó mò vô mùng leo lên nằm kế con Nghín.
Nản quá, ông Hai Chơn hỏi con Nghín. Con bé nói, ông phải chửi thì nó mới nghe. Nó quen vậy rồi. Chửi nặng, chửi thề. Ông già tròn mắt, mày dạy chó kiểu gì vậy con? Ông già ngượng miệng, thử: “Bà nội cha mày Cọp!” Con chó vằn nhỏng dậy, chạy lại thè lưỡi liếm tay ông. Chèn đéc ơi…
Ít lâu sau, ông Hai Chơn đi qua gặp thầy Nhân. Thầy đồ này hồi xưa Đông Du bên Nhựt Bổn về, học cao hiểu rộng, chuyện chi cũng biết. Ông Hai muốn tìm hiểu về trò đua chó của mấy thằng Tây, và lí do tại sao tụi nó ép ông phải thi đấu. Thầy Nhân vuốt chòm râu mà rằng:
“Qua nói với chú Hai, là mấy con chó đua của Tây chạy nhanh ghê lắm, chạy phải ngang ngửa với ngựa đó. Tụi nó lại bự con gấp đôi chó Phú Quốc, sải chân nó rộng, nhún một cái là vọt xa cả thước.”
Rồi thầy Nhân kể cách người Pháp đua chó. Trò này tồn tại trong xã hội quý tộc châu Âu lâu nay để mua vui, khoe tiền tài quyền lực. Ở Bắc Hà từ lâu người Pháp đã cho xây trường đua, chứ trong Gia Định thành thì ít ai biết. Hễ có cuộc đấu xảo là bọn nhà giàu lại mang chó tới khoe nhau. Quan tỉnh trưởng có bốn con chó mua từ Anh quốc về, đua đâu thắng đó. Ổng về đây nghe nói chó Phú Quốc quý thì đâm ra hơn thua, muốn đè bẹp chó nước Nam để khoe mẽ.
Ông Hai thắc mắc luật đua, thầy Nhân cũng kể luôn là đua theo vòng tròn trên sân đất. Chỉ cần dạy cho chó biết cách bảo vệ bầy, ép đối phương, chạy đủ vòng là được. Thường thì tám con cùng xuất phát, có số hiệu. Dân nhà giàu sẽ đặt cược số tiền lớn vào con nào họ thích, con nào thắng thì ban tổ chức sẽ có thưởng riêng. Luật đơn giản vậy thôi, chớ khi ra trường đua thì tụi Tây xài luật rừng. Chuyện cả bọn xúm lại cắn một con tới chết là bình thường; hoặc chuyện lén bỏ bả chó cũng xảy ra như cơm bữa. Tụi nó ra luật, mình chỉ được nghe theo. Theo thầy thì ông Hai nên bỏ cuộc, chứ ganh đua chẳng có lợi gì. Không khéo quan Pháp nổi giận dân Phú Quốc khổ càng khổ thêm.
Nhưng ông Hai thuộc loại cứng đầu. Ông lân la thăm dò, biết khu đất người Pháp tổ chức đấu xảo rồi chiều nào cũng mang chó ra đó tập. Ba con Mực, Phèn, Cò khôn lanh nghe lời, chỉ hai buổi là đã biết chạy vòng theo sới đất. Con Cọp thì khác, dù nó chạy nhanh dữ thần, nhưng ông Hai Chơn không nói nổi.
Một bữa chiều cơm nước xong, ông Hai Chơn uống nước trà, biểu con Nghín ngồi cạnh bên mà ăn bánh. Ông hỏi: “Cha mẹ con làm sao mà đắm tàu?” Nó thừ người nhìn xa xăm ra biển. “Ba má con đi chài cá, trời sụp tối, vô bến lỡ đụng trúng tàu quan.” Ông hoảng hồn: “Rồi tụi nó làm gì?” Con Nghín không trả lời mà vùi đầu vô lòng ông già khóc lên nức nở. “Mẹ cha tụi ác nhơn!” Ông lại hỏi: “Con có muốn con Cọp chiến thắng cuộc đua này không? Ông coi sức vóc nó vượt trội ba con chó của ông. Chỉ có nó mới chạy thắng được chó Tây. Con phải giúp ông đánh bại tụi nó.”
Con Nghín ngồi thừ, nước mắt ứa tràn. Thật ra nó cũng muốn tỉnh trưởng, người đã sai lính đánh chết ba má nó phải nhục nhã thua cuộc. Cuộc đua này là cơ hội để nó trả thù. Con Nghín gật đầu, nhìn ông già, mắt tràn đầy cương quyết.
Bằng cây roi mây quấn lá chuối, mớ bánh men, thêm tiếng huýt sáo và dăm câu la hét văng tục, con Nghín sau ba ngày quần quật đã dạy cho con Cọp chạy theo vòng đua thành công.
Thêm ba ngày nữa, bầy chó bốn con đã chạy được theo đội hình, biết nương theo sức nhau. Bốn con ăn chung ngủ chung, tự nhiên thương nhau, biết sống dựa vào nhau.
Hai ông cháu cùng bầy chó tập không ngừng nghỉ, đôi ba bận người Pháp đi ngang thấy vậy thì cười khẩy. Mấy con chó nhỏ thó này sức đâu mà chọi lại bầy chiến khuyển thượng đẳng của Tây.

Minh hoạ: Doãn Hoàng Kiên
4.
Ngày đấu xảo đã đến, trời đất vần vũ, mây kéo đen kịt. Có lẽ cơn bão biển sắp đổ ập lên đảo. Bão thì bão, khu đất trống vẫn giăng đèn kết hoa, treo khắp nơi những lá cờ nhỏ ba màu xanh, trắng, đỏ. Những trò chơi ì đùng thu hút cả mấy trăm người xoay vòng mà xem, ai nấy chỉ trỏ, nói cười, hân hoan như trẩy hội. Chỉ có một số ít người hậm hực. Tụi nó lấy người Nam ra làm trò, vui vẻ cái gì. Trên một cây tre cao trét dầu, lần lượt từng cậu trai leo lên cố với túi tiền, té bịch bịch như mít rụng. Hoặc ở trò nhảy vòng lửa, ai nhào qua được thì có thưởng, vài thanh niên cháy xém áo quần râu tóc, thấy thương.
Chỗ người tập trung nhiều nhất là trường đua chó. Trên đài cao, ông tỉnh trưởng ngồi chéo chân, vừa cầm li rượu vang vừa phì phèo xì gà. Sau lưng ông là vài vị quan khác, Pháp có mà người Nam cũng có, từ đốc phủ sứ tới tri huyện, tri phủ, chỉ trỏ cười đùa. Cạnh đó, nhân vật quan trọng được mời về, mắt đăm đăm khó dò, đó là ngài thống đốc Nam Kỳ, quyền lực bao trùm toàn cõi, chỉ dưới có Toàn quyền Đông Dương.
Dưới sân đua, bốn con ngao Anh quốc được nài dắt ra, khoác bốn tấm lụa sặc sỡ bóng loáng thêu lá quốc kì Pháp bằng chỉ kim tuyến. Con nào con nấy cao nghệu, bắp thịt chắc nịch không có lấy một thớ mỡ, trông giống ngựa đua hơn là chó. Cả khán đài ồ lên vỗ tay, khen giống chó quý hiếm. Mấy lão Tây ai nấy đưa ngón tay cái, xu nịnh quan tỉnh trưởng có bầy chó giá trị liên thành, cổ kim khó sánh. Ngay cả tới thống đốc cũng mỉm cười gật đầu thích thú.
Bên góc kia khán đài, ông Hai Chơn cũng dắt bốn con chó ra. Con Cọp đi đầu, ba con Phèn, Cò, Mực tai dựng đứng, mắt sáng quắc ngay hàng thẳng lối đi sau, không ngó nghiêng, không lăng xăng. Khi bốn con đến nơi xuất phát, bà con đã bỏ hết các trò chơi khác chen lấn đứng men theo hàng rào, sau lưng mười tên lính mã tà cầm súng bảo vệ quan lớn. Thấy bầy chó Phú Quốc đứng cạnh lũ chó đua chuyên nghiệp y rang người Nam đứng kế người Tây, lũ quan cười rộ lên.
Ông Hai ngó lên khán đài, thấy ông tỉnh trưởng vỗ tay lép bép, nhưng ánh mắt nhìn xuống ông như nhìn con sâu con kiến. Ông Hai ngồi chồm hỗm nói với bốn con chó: “Bây phải thắng, để cho tụi nó biết người mình không phải dễ ăn hiếp, nghen!” Bốn con chó chăm chú nhìn chủ, cùng lúc đó tiếng kèn khai mạc cuộc đua vang lên.
Sau một tràng tiếng Pháp, rồi tới tiếng Nam giới thiệu tên hai đội, tám con chó được đưa vào vạch xuất phát. Cuộc đua sẽ diễn ra ba vòng chạy quanh trường, hễ con nào tới đích đầu tiên sẽ là vô địch. Bên kia tên nài người Pháp chưa buông tay ra mà lũ ngao đã gầm gừ khiêu khích. Ba con chó của ông Hai im re nhẫn nhịn, riêng con Cọp thì lồng lên sủa đáp trả. Ông Hai phải vỗ cái chát lên đầu nó mới chịu quay trở lại không làm dữ.
“Đùng!”
Tiếng súng lệnh vang lên. Hàng rào cây được kéo vào. Trong khi bốn con chó ngao cuốn chân chạy ào ào như sóng lớn thì bốn con chó Phú Quốc hoảng hồn vì nghe tiếng nổ. Ông Hai phải vỗ vào mông chúng mới quýnh quáng nhập cuộc.
Đoạn khởi đầu thiệt là trật vuột. Vì chó Tây đã quá quen với những vòng đua, chạy đều rang theo đội hình, ngăn không cho chó Phú Quốc vượt lên. Riêng con Cọp sức vóc hơn hẳn ba con còn lại, muốn tách đoàn vượt lên trước tụi chó Tây. Ông Hai đoán hễ tách ra thế nào cũng có chuyện nên đã sắp đặt con Nghín núp ở một góc cua, dứ cái roi quấn lá chuối mà hù. Con Cọp bèn chậm lại ráp vào đội hình đồng đều, hai trước hai sau.
Được nửa vòng đầu tiên, đội chó của ông hai Chơn không hề kém cạnh đội chó của ông tỉnh trưởng. Bốn con chó xứ lạnh quen ăn ngon mặc đẹp vừa phải đi tàu sang đảo chưa hết say sóng nên không thể chạy nhanh như thường lệ. Đã vậy, bão sắp vào, gió thổi lồng lộng, chúng chạy va vào nhau.
Chó Phú Quốc thì khác, dầm mưa dãi nắng quen rồi, lại là chó xứ biển vóc dáng nhỏ gọn lao đi sát mặt đất nên gió bão không ảnh hưởng gì.
Bốn con chó đảo bám sát bầy chó Tây, nhiều lúc vượt lên dẫn trước rồi lại bị tuột về sau.
Đến gần cuối vòng đua đầu tiên, chỗ khúc quanh, tiếng huýt sáo của ông Hai Chơn vang lên. Ba con Phèn, Mực, Cò bứt tốc kịch liệt, chen vào giữa đội hình chó Tây. Mấy con chó ngoại quốc bị những con chó nhỏ chạy ép chân đâm ra lúng túng. Lúc đó thì con Cọp như một mũi tên bắn lên trước vèo vèo. Khán giả ồ lên. Tỉnh trưởng và thống đốc cũng trố mắt kinh ngạc. Tụi An Nam dạy cho chó chơi chiến thuật ghê gớm như vậy sao? Hắn đâu có biết từ thời Gia Long chó Phú Quốc đã được dùng làm khuyển binh, có kĩ thuật quấy rối quân địch.
Thế nhưng bầy chó ngao đâu phải tầm thường. Rất nhanh, chúng bắt lại được nhịp. Chúng chuyển sang phóng bằng những bước thật xa rồi nhảy vọt qua đầu ba con chó nhỏ. Tỉnh trưởng cười ha hả, có sức mạnh là áp chế hết chiến thuật vặt vãnh của lũ man di. Khi bầy chó ngao rút ngắn được khoảng cách, con Cọp cũng hoảng hồn dạt sang bên. Qua vòng đua thứ hai thì nó bị rớt, trở lại vị trí ban đầu.
Dân Nam xem ai nấy hồi hộp. Ban đầu ai cũng đoán chắc chó ta thua, nhưng coi cuộc đua họ đã hiểu là chó xứ mình không hề kém cạnh tụi chó nhà giàu, miễn là biết đoàn kết, lợi dụng yếu điểm của đối thủ. Bỗng nhiên trong lòng ai nấy đều khát khao chiến thắng, ngọn lửa dần nhen nhóm rồi bùng cháy lúc nào không hay.
Vòng thứ hai được nửa thì bão rít ào ào. Mưa hạt nào hạt nấy to cộ, rớt trúng người đau điếng. Trên khán đài, các quan có mái che, lính tráng bung dù ra hầu hạ. Bên dưới dân Nam đội mưa mà xem.
Dưới màn mưa tám con chó vẫn lao đi veo véo. Nước nhanh chóng ngập nền sân đất. Những con chó ngao quen chạy trên địa hình thuận lợi, bây giờ gặp sình lầy thì chậm đi thấy rõ. Ngược lại, chó Phú Quốc chân có màng rộng, đạp lên sình mà lướt, nhìn xa như bầy ngựa trời cưỡi mây bay. Hết vòng đua thứ hai, bầy chó đảo cả bốn con đều vượt lên.
Tỉnh trưởng nhìn sang thấy ngài thống đốc đang nhăn mặt thì lập tức đứng bật dậy xổ một tràng tiếng Pháp um sùm. Thầy Nhân đứng gần đó nghe thấy, hoảng hồn tức tốc chạy về phía ông Hai Chơn:
“Chú Hai, tụi nó sắp chơi đòn bẩn!”
Thầy vừa nói xong thì ông Hai Chơn nghe tiếng “bíp” nhỏ xíu vang lên. Bốn con chó ngao đã quá quen với hiệu lệnh này, bứt tốc lao xổ vào con Phèn đang chạy chậm nhất phía sau. Con Phèn bị bất ngờ nhưng quyết gồng mình chống trả, máu hòa vào nước mưa. Ba con kia thấy đồng đội bị tấn công liền quay đầu trở lại. Con Cọp mắt long lên đỏ ngầu nhảy vào con chó ngao gần nhất mà cắn. Trận hỗn chiến diễn ra điên cuồng. Cuộc đua thể thao trở thành võ đài đẫm máu. Ông Hai Chơn nhìn bầy chó bị cắn tan tác mà lòng đau thắt. Dân chúng xung quanh càng lúc càng bất bình, la hét um sùm. Tụi lính mã tà thấy vậy nâng cao súng đe dọa. Tiếng chửi rủa càng lúc càng lớn, tỉnh trưởng đứng lên nhoài người ra sát lan can nói xì xồ.
“Tuýt!”
Đúng lúc đó, con Nghín đã chui tọt ra sau vạch đích. Nó huýt sáo gọi con Cọp. Con Cọp thân hình máu me đầm đìa, một chân bị cắn đứt dây chằng, nhưng nghe hiệu lệnh liền giằng ra khỏi trận loạn đấu, chạy thẳng đến chỗ con Nghín bằng ba chân.
Máu theo nước mưa loang đỏ đấu trường.
Hàng trăm dân đảo gào lên dậy trời dậy đất.
Bốn con chó ngao thấy con Cọp băng lên liền giật mình toan đuổi theo. Nhưng ba con chó Phú Quốc đã ghìm chúng lại. Những miếng cắn chí mạng vào bụng vào chân lũ chó cao to, ghì chặt. Lũ chó ngao vằng ra táp lại điên cuồng. Con Phèn bị cắn ngay cổ nhưng đã vằng mạnh ra, hở cả cuống họng. Con Mực bị xé rách hai tai. Con Cò bị đẩy ngửa ra cắn lòi ruột. Thế nhưng ba con chó vẫn liều chết tới cùng, giữ chân để không một con nào có thể dứt ra mà đuổi theo con Cọp.
Tập tễnh.
Khập khiễng.
Rướn mình…
Như một chiến binh mang đầy thương tích, con Cọp đã vượt qua vạch đích.
Dân chúng la dậy như sấm nổ.
Ông Hai Chơn vịn vai thầy Nhân vỗ vỗ…
Con Nghín lao vào ôm con Cọp khóc òa.
“Đùng!”
Tiếng súng vang lên. Trên khán đài, tỉnh trưởng mắt quắc lên man rợ, trên tay là khẩu súng ngắn đang bốc khói.
Sau vạch đích, đứa bé gái đang ôm con chó nằm im lìm dưới cơn mưa tầm tã, máu loang đỏ nước.
Cả mấy trăm người Nam như sóng trào lên.
Ngài thống đốc mặt tối sầm quét mắt nhìn.
Tụi lính giương súng chờ lệnh, mặt mũi căng thẳng.
Ngài thống đốc vụt đứng dậy giơ tay ra hiệu cho đám lính không được manh động. Lòng thầm rủa, thằng tỉnh trưởng ngu lắm, giận quá mất khôn, bây giờ tụi nó tràn lên đây thì… thì…
“Chát”.
Một cục đá từ đâu bay tới, đầu ngài đau điếng. Rồi rào rào rào rào… một trận mưa đá trút xuống khán đài. Quan quân rối loạn. Tụi mã tà bị xô ngã, lồm cồm bò dậy, mặt đằng đằng sát khí. Ngài thống đốc vội hét lên:
“Không được bắn! Thêm một người Nam chết là người Pháp chôn thây ở đây.”
Dứt câu nói bằng tiếng Việt, ngài liền chụp cây súng của thằng lính kế bên quật vào đầu tỉnh trưởng đánh bốp. Tỉnh trưởng ngã ra bất tỉnh. Ngài nhìn đám đông, hai tay nâng lên hạ xuống làm động tác xoa dịu. Trường đua bỗng chốc lặng phắc.
“Hôm nay tỉnh trưởng làm bậy, sau đây ta sẽ trị tội nặng!”
Ngừng một lát để cho dân chúng hạ hỏa, ngài thống đốc bước xuống chỗ ông Hai Chơn đang ôm con Nghín khóc. Ngài đứng nghiêm dõng dạc tuyên bố:
“Cuộc đua hôm nay đội chó của ông Hai Chơn đã thắng. Phần thưởng là mười đồng Đông Dương.”
Ngài quẳng vội bịch tiền xuống sân rồi quay lưng đi như chạy. Đám mã tà vội nhào tới khiêng quan tỉnh trưởng chạy theo quan thống đốc.
Ra khỏi trường đua, lên xe đi thẳng ra bến, lên tàu ngồi phịch xuống ghế, uống hết li nước mà tim thống đốc vẫn còn đập thình thịch như muốn rớt ra ngoài…
5.
Chục năm sau, dưới hàng dương xanh mát, có đứa nhỏ đang ngồi đắp những mảnh vỏ sò lên mấy cái gò. Thấy má đi ra, nó quay qua hỏi, mắt tròn đen láy:
“Má ơi, mình hay ra cúng mấy cái mộ này, mộ ai vậy má?”
Người phụ nữ cười hiền từ, chỉ lần lượt bốn cái gò đất:
“Đây là Cò, Phèn, Mực, Cọp.”
“Ủa? Là chó hả má?”
“Không, là mộ của những bảo khuyển con ạ.”
Vết thương bị đạn bắn trên vai người phụ nữ tự nhiên nhói lên. Gió thổi vào đảo lồng lộng. Người phụ nữ bặm môi nhìn về phía đồn Tây rồi dõi mắt ra những lớp sóng đang ào ạt. Rồi có một ngày sóng thần sẽ về…
V.Đ.K
VNQD