“Mùa xuân” của nhà McLaughlin

Thứ Bảy, 08/02/2025 06:06

Cách đây đúng 102 năm, nữ văn sĩ Margaret Wilson đã được trao giải Pulitzer danh giá ở hạng mục hư cấu cho cuốn The Able McLaughlin (tạm dịch: Nhà McLaughlin). Lấy bối cảnh sau khi cuộc Nội chiến Mĩ vừa mới kết thúc, tác phẩm xoay quanh nhân vật cựu binh Wully và nỗ lực tái thiết, đứng lên xây dựng cuộc sống của bản thân mình.

Trong chương đầu tiên, không hẹn mà gặp, Wilson đã tái hiện lại rất nhiều không khí của một mùa xuân: Từ việc cho thấy nỗ lực khai hoang của một gia đình Scotland cần cù ở vùng đất mới, cho đến cảm xúc khó nói thành lời của một người mẹ khi cậu con trai “lành ít dữ nhiều” đã trở về nhà sau cuộc chiến tranh... Những áng văn đó tuy được viết ra hơn một thế kỉ, thế nhưng ngày nay khi đọc lại, ta vẫn cảm thấy những khắc khoải ấy như đang rất gần. Xin được giới thiệu một trích đoạn ngắn từ cuốn sách này.

__________

Thảo nguyên phơi mình vào buổi chiều tà như đã nằm đó suốt nhiều thế kỉ. Nó bao la, bất động, lặng im như một đại dương với gió thoảng qua tạo thành những gợn sóng nhỏ, lăn tăn xô vào bờ cát. Ở đó người ta có thể đi bộ hàng giờ liền mà không nghe thấy bất cứ tiếng gì lớn hơn những cuộn mây trắng từ trên cao xa đổ bóng xuống đất hoặc cỏ đầm lầy uể oải oằn mình theo nhịp sóng nước. Người ta cứ đi và chỉ có thể bỗng bị giật mình bởi những hạt súng đầm lầy đỏ thắm rơi tõm xuống nước hay những chú sẻ vàng đột nhiên xuất hiện hoặc tiếng cào cấu của bầy gà thảo nguyên non lẩn khuất trong những đám cỏ chưa vượt quá đầu. Mọi thứ càng lúc càng yên tĩnh hơn trong nhiều năm nay, khi không con bê nào được sinh ra hoặc có người phụ nữ da đỏ cao niên nào được nhìn thấy đang hái những quả nho chín rục từ các bụi cây ở ven con suối. Mười lăm năm qua, người ta đi về phía tây suốt nhiều tháng liền mà không nghe thấy tiếng cười nói nào. Và ngày hôm đó, nếu một lữ khách bỏ lỡ ngôi nhà nơi cậu bé David và cô em gái Sarah béo tốt đang ngồi chơi đùa thì cũng không gì là quá bất ngờ, bởi họ sống trong một vùng bao la và chỉ hiện diện như một bọt nước trên đỉnh triều dâng. Mười năm trước, cha của những đứa trẻ đã kết thúc hành trình đi từ Ayrshire [1] đến đây bằng cách dừng cỗ xe bò ngay tại nơi đây, và tám đứa trẻ cả trai cả gái đã nhảy xuống đất đúng vụ thu hoạch dâu dại mùa hè khi chúng đã bị vặt trụi khiến cho bọn trẻ hét lên thích thú, phá vỡ một lần và mãi mãi sự im lặng đông cứng suốt hàng thế kỉ của thảo nguyên này. Anh chính là người sẽ sống trong sự cô độc mà điểm cuối của đường sắt – nơi kết thúc sự ồn ả của thế giới người – cũng phải cách đây gần trăm cây số [2]. Nhưng người tiên phong có tầm nhìn xa này đã mang theo một giải pháp còn mạnh mẽ hơn để chống lại sự im lặng ngự trị có thể khiến cho người ta phát điên. Đó là ngôi nhà dành riêng và của riêng mình. Ngôi nhà gỗ mà anh và chín người con, mà anh trai và mười người con của anh ấy, mà hai chị gái và mười sáu người con của họ đã sống vào mùa hè đầu tiên đó, giờ chỉ còn là nhà kho chứa củi nằm bên cạnh bếp. Ngôi nhà là một công trình đẹp, được xây dựng chủ yếu từ gỗ xẻ được kéo đến đây sau một quãng đường sáu mươi cây số ngoặt về phía tây nơi mà đường sắt cũng nằm ở đó, và được hoàn thiện một nửa bằng gỗ anh đào dại đốn từ con suối, và nửa còn lại bằng gỗ óc chó cũng từ nơi này. Từ ngày mà nhà McLaughlin đến đây cũng như sau đó khi tất cả quây quần định cư gần nhau và rồi mua đất từ phía chính phủ, nơi đây đã chứng kiến sự hiện diện của ba anh trai và bốn chị gái đằng nhà của anh, cũng như hai anh em trai và một chị gái của phía bên vợ. Tất cả đã cho ra đời tổng cộng sáu mưới chín đứa trẻ và cả thảy đều phá tan lớp băng yên tĩnh ngự trị lên vùng đất này đến mức bọn rắn đuôi chuông cũng phải lủi đi. Một số ngôi nhà nhỏ họ đã xây dựng riêng cho chính mình có thể nhìn thấy vào chiều hôm đó như những đốm nhỏ tít mãi xa mờ bên kia đại dương. Nhưng Sarah và David khi ấy thì không để mắt đến những điều này.

Chúng nó giờ đã chán ngấy nhìn con bê đỏ ngủ, và Davie [3] thì đang cố gắng làm nó động đậy. Cuối cùng vì để tự vệ nó cũng đứng dậy, và sau khi thấy bản thân đã hưởng một giấc đẫy đà, nó bắt đầu cựa quậy bốn chân, thử độ dài của sợi dây thừng và rồi dựng chỏm đuôi tỏ vẻ hài lòng. Khi ấy bọn chúng đột nhiên rút lui về phía bậc cửa nơi Hughie đang ngồi bởi giờ đây con bê này đã bắt đầu tương đối khó đoán. Hughie không giống như những người khác, nó phải ở nhà vì còn quá nhỏ để được đến trường. Thật là vậy á, không phải thế đâu! Nó mười tuổi rồi và hôm nay phải ở nhà vì bị cảm cúm, bởi hôm qua khí lạnh bắt đầu bốc mạnh trên khắp thảo nguyên. Cả ba đứa nó đã ngồi im lặng được một chốc ngắn.

Ảnh minh hoạ.

“Tại sao nó vẫy đuôi thế?” Davie hỏi.

“Nó xin chúc tụng Chúa đấy!” Hughie, với sự khôn ngoan và vẻ xanh xao lập tức đáp lời.

“Ra vậy!” Davie thốt lên, có vẻ bị ấn tượng. “Rồi Chúa có hiểu được lòng nó không?”

“Dĩ nhiên là hiểu,” Hughie nói. Đó là câu hỏi quá dễ trở lời. “Nó có xuất hiện trong Thi Thiên mà. Đoạn mà bò sát và gia súc [4] ấy.”

Davie ngồi đó một lúc, ngẫm nghĩ về sự thông thái của Đấng Tạo Hóa trong sự nhộn nhạo của chú bê vui vẻ. Nhưng cảm xúc ấy không kéo dài lâu - có lẽ giống như Đấng Tạo Hóa của mình [5] – nó liền lập tức tìm cảm hứng mới. Sau đó nó đứng dậy, đi xuống lỗi dẫn về phía đường cái và đứng đó nhìn theo hướng mà những đứa lớn tuổi hơn sẽ sớm về đến sau giờ tan trường. Chỉ có ở đây cũng như vài đoạn trên con đường ấy là có thể thấy được anh chị nó đi đi về về bởi cỏ không cao quá đầu, trong khi đa số còn lại thì cỏ cao quá một người cưỡi ngựa. Chỗ đấy thì là bất khả để thấy được ai.

Nhưng không phải kia có người đang đi xuống sao?

“Hughie, em thấy có người đang đi trên đường!” thằng bé gọi to.

Không thể nào có!” Hughie đáp lại. Ai mà thèm đến. Nhưng nhỡ có gì đặc biệt thì sao, nói thế nhưng nó vẫn liếc nhìn trong khi Sarah lạch bạch bám sau anh mình.

Nhìn kia kìa!

Có thật sự có một thứ gì đó đang di chuyển dưới chỗ vũng lầy xa xôi đó không? Ba đứa đứng đó lặng yên, nhìn qua thảo nguyên trong tư thế tay che mắt, chân để trần, và trong khi những thằng bé mặc bộ đồ tự may thô sơ nhất, thì Sarah lại được che chắn bởi chiếc tạp dề được tận dụng lại. Tất cả đứng nhìn trong nắng thu vàng tỏa xung quanh mình...

Sau đó không lâu, ở chỗ cỏ cao - nơi lũ nhỏ hơn bị cấm bén mảng đến vì khi lạc sẽ là bất khả để tìm được chúng - những đứa lớn hơn tan học về nhà đã kịp xuất hiện. Sau khi nhận được một cái gật đầu, cả ba chạy đến gặp anh chị mình và liền hét lên cái tin mới ấy. Khi đến một gò đất nhỏ, nơi ngôi nhà tọa lạc, hết thảy bọn chúng đều cùng dừng lại để nhìn chính thứ gì đó đang đến gần hơn. Có Mary, đứa lớn tuổi nhất và là cô giáo, Jessie, Flora, James và Peter nữa.

Đúng vậy! Bây giờ thì không nghi ngờ gì nữa!

“Họ có nhiều người!” Peter kêu lên.

“Cùng mặc đồ xám!” thằng bé đế thêm sau một lúc lâu. Bây giờ bọn chúng bất động vì sự tò mò. Ai diện đồ xám ở chỗ này nhỉ?

“Hai người đàn ông,” Mary khẳng định.

Rồi Peter hét lên,

“Một người màu xanh!” Bây giờ chúng đã phấn khích đến không thở được

Màu xanh! Có thể lắm chứ! Điều này quá sức chịu đựng của Mary.

“Chạy đi, Peter!” con bé hét lên. “Vào nhà gọi mẹ! Gọi cả bố nữa! Họ trông giống lính!” Ba tuần đã trôi qua rồi kể từ trận chiến cuối cùng như anh trai Wully của chúng đã đưa tin về. Những cô em nhỏ thì nhảy cẫng lên vì sự phấn khích.

Ảnh minh hoạ.

Tiếng hét của bọn trẻ tuy vậy lại không làm phiền người mẹ đang ngồi khâu vá trong bếp chỉ cho đến khi – bà nghe nhầm à? – chúng nó hét lên - “Wully, mẹ ơi!”, “Anh hai Wully!” Bà chạy khỏi nhà, xuống chỗ lối đi.

“Không thể thế được!” bà lẩm bẩm vẻ còn nghi hoặc. Nhưng bà cũng có thể thấy một người mặc bộ đồ xanh, trong khi ai đó thì đứng hẳn lên, vẫy vẫy chiếc mũ. Bà có thể thấy khuôn mặt của y chuyển sang trắng bệch. Những đứa trẻ chạy ào xuống đường. Bà có thể thấy thằng bé, đứa con đầu lòng có bộ râu đen của mình. Người đánh xe vẫn đang thúc ngựa. Anh đã về nhà sau những trận chiến, đã về với vòng tay mẹ trong khi đôi môi đã chuyển nhợt nhạt. Môi bà còn tái hơn anh.

“Chạy bảo cha lại đây!” bà hét để đứa nào thì cũng nghe thấy nó. Chúng đang nhấp nhổm, nôn nao gặp lại anh mình. Người đánh xe xa lạ trong khoảnh khắc ấy đã ý nhị vỗ về những con ngựa của mình, quay lưng lại với gia đình vừa được đoàn tụ. Họ ôm, hôn, bám riết và yêu thương nhau. Wully có râu giới thiệu người lạ.

“Đây là ông Knight, ở chỗ Tyler, mẹ ạ. Ông ấy đã đưa con đi suốt chặng đường dài.”

“Ông mới nhân hậu làm sao!” bà thốt lên, bắt tay người đàn ông ấy một cách chân thành.

“Chuyện phải làm thôi, anh ấy là lính chứ phải thường đâu. Vì trông không thể đi xa nên tôi mới giúp.”

“Làm sao mà yếu!” bà quay sang Wully và cũng cùng lúc quan sát mặt anh. Chắc chắn là anh không bệnh tật gì và vẫn có thể đi bộ, nhưng anh thấy mừng vì đã không phải như thế, vì vậy đã ngay lập tức đế thêm nụ cười với người xa lạ. Họ đứng cạnh nhau một cách ngượng ngùng, sung sướng, người này nhìn người kia phấn khích không nói nên lời. Sau đó người mẹ dẫn tất cả về lại ngôi nhà vẫn chưa được sơn, trong lúc đó những đứa trẻ huyên náo mừng vui bám lấy anh mình.

Andrew mười lăm tuổi vẫn đang làm việc ở phần xa hơn của cánh đồng không xa ngôi nhà là mấy vào chiều hôm đó, và cậu nhìn thấy từ xa khi cha được Peter gọi, ông liền buông bỏ cái cày và chạy về nhà với một tốc độ chưa bao giờ thấy. Đến lượt mình, cậu đi trước đàn bò bị ruồi đốt và hơi bồn chồn một khoảng cách xa đủ để thấy trước nhà có một đám đông và chiếc xe ngựa hiện không có người. Cậu tháo dây cương cho những con bò thiến đuối sức, sốt ruột thúc chúng đến nơi buộc dây và rồi vội vã hướng về phía nhà.

Những gì cậu đã chứng kiến ở chính nơi đó để lại ấn tượng vô cùng sâu sắc đến nỗi 57 năm sau, khi cháu trai của người đánh ngựa xa lạ trong dáng hình của một cựu chiến binh bầm dập trong Thế chiến thứ nhất đến văn phòng cậu để mà xin việc, toàn bộ cảnh cũ đã như thước phim hiện trước mắt cậu xúc động đến nỗi Andrew phải đột ngột quay đầu đi, tần ngần nhớ lại...

Ở đó, trong bếp, trên chiếc ghế mẹ vẫn thường ngồi, người xa lạ với bộ quần áo đẹp đẽ hiện đang an tọa với li whisky cầm chặt trong tay mà cha của cậu vừa mới rót cho. Trong khi đó người anh trai gầy gò cao lớn mặc đồ màu xanh, một ống quần xắn lên đến đầu gối, đầy lông rậm rạp, đang ngồi trên giường. Trên một dải thảm trước giường, mẹ cậu đang quỳ với khuôn mặt trắng bệch kì lạ, thấm đẫm những mảnh giẻ đẫm máu để tránh chạm vào những vết loét kinh khủng trên bàn chân yêu quý của con trai mình. Mary đứng cạnh tủ, xé một thứ gì đó màu trắng thành các dải băng, trong khi những đứa trẻ khác tụ lại quanh chị, kinh ngạc trước cảnh mẹ chúng đang làm.

Andy [6] đã chứng kiến ​​tất cả những điều đó, và khi thấy cậu trong lúc đang kể những trò đùa cũ với bọn nhỏ hơn, Wully hét lên như thể bị nhói ở chỗ vết thương, theo kiểu chào mời mà bọn trẻ con rất hay sử dụng.

“Vẫn rủng rỉnh chứ, Andy!” [7] Có vẻ như Wully không thực sự bệnh tật hay gầy òm gì. Nó không phải là vết thương, anh khẳng định. Đó chỉ là một vết xước thôi. Anh thực sự không thể nói chính xác chuyện gì đã xảy ra. Chuyện chẳng có gì! Nhỏ như con thỏ với một người lính, nhưng đối với mẹ anh thì đó lại là dấu hiệu của cái chết sắp sửa xảy ra với đứa con trai mà mình yêu nhất. Bà bắt đầu nhẹ nhàng xoa chỗ tổn thương bằng mỡ cừu. Wully, chợt nhớ, lấy từ trong túi ra một gói kẹo bọc giấy cho bọn trẻ. Chúng hiếm khi thấy những thứ như vậy. Chúng chăm chú quan sát những thứ bên trong, và khi người lạ đang nói chuyện với cha mình, thì Andy, vẫn đứng ngượng ngùng ở cửa, nhìn thấy một điều xảy ra và đây chính là bước ngoặt đã làm thay đổi nhận thức của anh. Anh thấy mẹ mình, người đã buộc chặt miếng băng cuối cùng và đang cẩn thận kéo ống quần của anh trai xuống, đột nhiên cúi xuống và hôn lên chân của con trai mình! Cậu thấy trong cử chỉ đó một niềm tha thiết vô cùng mãnh liệt đến độ cậu mơ hồ nhận ra một điều gì đó to lớn dữ dội vẫn đang ẩn giấu trong cuộc sống này mà chỉ thỉnh thoảng mới thoát khỏi lớp vỏ cứng nhắc để cho ta thấy, một điều khủng khiếp gọi là tình yêu... đôi khi bùng nổ... ngay cả ở những phụ nữ lớn tuổi như mẹ của mình. Cậu đột nhiên quay mặt đi như để tránh sự trần trụi bị cấm đoán đó, và nhìn chằm chằm vào anh trai mình.

Người anh hùng đó, hoàn toàn không hề xấu hổ, đang kéo mẹ mình, người đã đứng dậy, xuống ngồi bên cạnh trên cùng chiếc giường. Bà ngồi đó, không hề nhận thức căn phòng đã chật kín người mà chỉ nhìn anh, nhìn... như thể không bao giờ là đủ dẫu từ nãy đến giờ bà đã chăm chăm vào con trai mình. Khi bà nhìn anh không dứt ra được thì ngay lúc đó, với sự chú ý của tất cả mọi người, anh bắt đầu kể theo kiểu bông lơn về cuộc tẩu thoát. Theo đó một nửa trung đoàn của anh đã bị bắt làm tù binh, bao gồm cả lính cấp trên. Họ bị dẫn về hướng của một chuyến tàu để được đưa về phía nam, và anh đã hành quân giữa đội hình cho đến khi ngã gục. Anh nói với những kẻ bắt giữ mình rằng họ có thể bắn anh nếu muốn, nhưng anh không thể đi thêm được bước nào nữa. Thế là họ bỏ lại anh nằm bất lực bên lề đường và cắt đặt một tên lính khác đứng canh chừng mình. Tuy vậy trước khi chiếc xe ngựa đến để mang cả hai người đi, thì tên lính kia bỗng dưng ngủ gục, và với thôi thúc mạnh mẽ để chạy đến tự do thay vì hành quân đến với nhà tù, Wully đã thừa cơ hội để mà “thả câu”. Đói khát và phải ẩn nấp, đêm này qua đến đêm kia anh đã bò dần về phía sông Mississippi, và ở đó anh đã nhìn thấy một chiếc thuyền đang đưa những người lính miền Bắc bị thương về nhà, đang neo ở bờ sông để chôn cất lính tử nạn. Thuyền trưởng thấy thương hại anh trong tình trạng lạnh cóng và thoi thóp thở những hơi yếu dần, đã đưa anh đến Davenport. Sau đó, anh đi tàu đến thị trấn Iowa gần nhất và đã gặp được người đánh xe xa lạ này... Ồ, mẹ không cần phải lo lắng về việc anh bị xử bắn vì đào ngũ đâu. Họ biết anh quá rõ trong thời gian qua, và đó là trong trường hợp mà họ còn sống. Chẳng phải bạn thân của anh, Harvey Stow, đã lén về nhà bốn lần mà chẳng bị động đến cộng lông chân đó sao, dẫu không một ai cho phép điều đó? Ngay khi anh bình phục chút ít, anh sẽ trình diện và rồi quay lại – vâng, chắc chắn rồi – anh sẽ quay lại đời sống quân ngũ bất kể mẹ anh gần như nín thở khi nghe điều đó…

NGÔ THUẬN PHÁT dịch

---------------

Những chú thích trong truyện ngắn này, nếu không có lưu ý gì thêm, là của người dịch.

[1] Vùng đất nằm ở phía Tây Scotland.

[2] Nguyên tác là 60 dặm. Kể từ đây, bản dịch sẽ tự động chuyển đổi các đơn vị đo nước ngoài sang hệ SI quen thuộc hơn với độc giả Việt Nam để bạn đọc có thể theo dõi một cách thuận tiện.

[3] Tên gọi thân thương của David.

[4] Trong khi Sáng thế ký 1:24 chỉ liệt kê 3 nhóm động vật trên cạn là gia súc, thú dữ trên đất và các loài vật bò sát, thì trong Thi thiên, đó là 4 loại thú dữ, gia súc, bò sát và chim bay.

[5] Có thể nhắc đến tích Đấng tạo hóa đã tạo ra thế gian trong 7 ngày sáng tạo.

[6] Tên gọi thân mật của Andrew.

[7] Nguyên tác: “Lang may your lum reek”. Đây là một câu thường gặp trong tiếng Scotland có nội dung chúc tụng những điều tốt đẹp. Nghĩa đen của nó là “Mong ống khói nhà bạn vẫn cháy rực” vì ngày xưa không phải ai cũng đủ tiền mua sưởi ấm nên có ý chúc giàu sang. Trong tác phẩm này, gia đình Andrew là người Scotland.

VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Bóng thầm mà rực rỡ trên mỗi trang văn

Bóng thầm mà rực rỡ trên mỗi trang văn

Sau những giờ lên lớp về lí thuyết, các ông chia nhau mỗi người kèm mấy học viên sáng tác... (CHÂU LA VIỆT) 

Anh Tựu trong "Vượt lũ"

Anh Tựu trong "Vượt lũ"

Anh Tựu của chúng tôi, ngoài đời là Thầy thuốc Ưu tú, tiến sĩ, dược sĩ chuyên khoa II Trần Tựu... (KIỀU BÍCH HẬU)

Giọt nước mắt mang hình vết thương

Giọt nước mắt mang hình vết thương

Cứ chiều chiều bà xay bột, tối tráng bánh rồi phơi, phơi đến khô thì mang ra chợ, vừa quạt than nướng vừa bán... (VŨ THANH LỊCH)

Tiếng chim bắt cô trói cột

Tiếng chim bắt cô trói cột

Chẳng biết bắt đầu từ đâu, nhưng trong kí ức của một đứa trẻ đôi lần lên núi kiếm củi, bứt lá rừng về lót chuồng cho lợn cho bò, thi thoảng gặp bụi sim chín ửng… thì núi sau lưng làng tôi được bắt đầu từ mé sông... (HỒ MINH TÂM)