Viết sách cho thiếu nhi: những kinh nghiệm gợi lên từ Tản Đà

Thứ Sáu, 19/12/2025 00:17

. NGUYỄN THỊ KIM NHẠN
 

Những năm gần đây, cùng với sự phát triển kinh tế, văn hóa và hội nhập quốc tế, văn học thiếu nhi đang ngày càng được quan tâm trở lại. Mối quan tâm đó không chỉ được thể hiện qua sự nở rộ của hoạt động sáng tác mà còn qua việc trở lại của hoạt động phê bình, nghiên cứu về văn học thiếu nhi. Trong bối cảnh đó, việc xem xét lại những chặng đường phát triển của văn học thiếu nhi có ý nghĩa quan trọng, góp phần giúp người đọc có cái nhìn khách quan và chân xác về lịch sử phát triển của bộ phận văn học này. Trong bài viết này, người viết muốn trở lại khoảng giao thời ở đầu thế kỉ XX, tìm lại một trong những tác giả quan trọng bậc nhất trong lịch sử văn học Việt Nam cận đại nhưng lại gần như ít được đề cập như một tác giả viết sách cho thiếu nhi, đó là tác giả Tản Đà. Bài viết cho rằng trẻ em nằm trong một ý đồ mang tính can dự của nhà thơ Tản Đà vào xã hội Việt Nam trong giai đoạn đang chuyển mình, hướng đến hiện đại hóa. Trước sự đổi thay chóng mặt của xã hội, nhà thơ muốn dùng văn học để thực hiện chức năng giáo hóa của nhà nho và hướng trẻ em đến các vấn đề không chỉ trong phạm vi nhận thức của lứa tuổi thơ ấu mà bước đầu làm quen với các vấn đề lớn hơn của quốc gia dân tộc.

1. Bối cảnh cho mối quan tâm đến giáo dục trẻ em của Tản Đà

Theo tác giả Nguyễn Bích San, ngay sau khi bình định được Nam Kì để biến nơi đây thành thuộc địa (1874) và thiết lập chế độ bảo hộ tại Bắc và Trung Kì (1884), thực dân Pháp đã có nhu cầu cấp bách phải hạn chế tầm ảnh hưởng của văn hóa Nho giáo và “thay thế bằng một hệ thống giáo dục phục vụ cho guồng máy cai trị”(1). Từ năm 1906, đạo dụ kí ngày 31/5 giữa chính phủ bảo hộ Pháp với chính phủ Nam triều đã ban bố nền học chính mới thay dần cho nền giáo dục Nho học cũ, áp dụng ở Bắc Kì và Trung Kì, theo đó chia ba bậc học: ấu học, tiểu học và trung học. Quy chế cho nền học chính này được nâng cấp vào năm 1917 với việc chính quyền Pháp ban bố Học chính tổng quy (Règlement général de l’Instruction publique) do Toàn quyền Albert Sarraut kí ngày 21/12/1917. Đây là văn bản làm nền móng cho hệ thống giáo dục toàn Đông Dương. Theo quy định, tiếng Pháp được sử dụng chính thức trong việc giảng dạy trong nhà trường, tuy nhiên, ba lớp học đầu tiên được phép học bằng tiếng bản xứ. Đối với các cấp học, Nha học chính không độc quyền biên soạn sách mà thường để cho các nhà xuất bản chủ trì việc biên soạn. Những quy định này đã thúc đẩy rất nhiều bộ sách viết bằng chữ quốc ngữ dành cho trẻ em ra đời. Trong bối cảnh đó, nhà thơ Tản Đà, với tư cách là một tác giả văn học nổi tiếng đương thời, đã hô ứng ngay với chính sách giáo dục mới của nhà nước bằng việc xuất bản liên tiếp hai cuốn sách: Lên sáu (1919) và Lên tám (1920).

Hai tác phẩm, như tên gọi của chúng, dành cho hai lứa tuổi ở giai đoạn nhi đồng, được thể hiện bằng hình thức văn vần, ngôn ngữ cô đọng, trong sáng, dễ hiểu. Trong bối cảnh hiếm hoi sách viết cho thiếu nhi, hai cuốn đều được in lại nhiều lần, với số lượng phát hành lớn. Chỉ tính riêng cuốn Lên sáu, phiên bản do Nam Anh thư quán in năm 1928, theo thông tin trang bìa, sách được in lần thứ chín, với số lượng ba mươi hai nghìn cuốn. Cuốn Lên tám do Alexandre De Rhodes ấn hành cho tới năm 1944. Điều này cho thấy mức độ phổ biến và sự ảnh hưởng của hai cuốn sách đối với bạn đọc nhỏ tuổi.

2. Giới thiệu Lên sáuLên tám

Về thể loại, Lên sáuLên tám được coi là “sách vần quốc ngữ”, với mục đích trước nhất là dạy chữ quốc ngữ cho thiếu nhi (do đó, các tài liệu đương thời xếp cuốn sách vào dạng ấu học giáo khoa thư). Tuy nhiên, người viết cho rằng hai cuốn sách đã vượt ra khỏi phạm vi của những cuốn sách giáo khoa thông thường để chuyên chở những thông điệp thẩm mĩ và xã hội mà một tác phẩm ngôn từ có thể gợi ra.

Cuốn sách đầu tiên, Lên sáu, viết cho đối tượng trẻ em mới bắt đầu học chữ. Sách gồm ba phần: Tựa, Hướng dẫn tập đọc, Bài học. Trong đó, phần Hướng dẫn tập đọc được thể hiện rất chi tiết (giới thiệu bảng chữ cái, cách tập đọc, tập viết, cách đánh vần, ghép âm...) Toàn bộ phần hướng dẫn này của Tản Đà có giá trị như một cuốn sách giáo khoa tập đọc, tập đánh vần cho trẻ nhỏ.

Phần chiếm dung lượng dài nhất của Lên sáu là Bài học, được viết dưới dạng một bài thơ dài, mỗi dòng ba chữ, hiệp vần nhau. Phần này có tác dụng như một bài tập thực hành cho trẻ. Được tác giả chia thành hai mươi mốt khổ, phần Bài học đề cập đến các khía cạnh, các mối quan hệ khác nhau trong đời sống trẻ em. Hai khổ đầu, nhà thơ nói đến nghĩa vụ học hành của trẻ nhỏ: Sách quốc ngữ/ chữ nước ta/ con cái nhà/ đều phải học để cho biết đạo/ mới nên thân/ sau nhớn dần/ ngày chóng khá. Năm khổ sau (3, 4, 5, 6, 7), Tản Đà đề cập đến mối quan hệ mật thiết nhất với một đứa trẻ - cha mẹ: Ai đẻ ta?/ cha cùng mẹ/ bồng lại bế/ yêu mà thương/ ơn nhường bao/ mày phải ngẫm, từ đó khuyên trẻ phải “biết ơn”, “hiếu” kính cha mẹ. Khổ thứ 8 nhắc đến mối quan hệ anh chị em trong gia đình, đưa đến phép ứng xử trước là tình/ sau là lễ. Khổ 9, 10 giới thiệu cội nguồn tổ tiên người có họ/ tổ sinh ra gắn với các quan hệ cụ thể: ông bà, chú bác, anh em họ hàng, từ đó rút ra lời dạy về chữ “kính”. Khổ 11 đề cập đến nghĩa thầy trò, bạn bè: mến trọng thầy/ học chóng biết, học có bạn/ mày dễ hay. Khổ 12 dạy trẻ “phép vệ sinh”: ăn quả xanh/ khó tiêu hóa… Tiếp đó, từ khổ 13 đến 16 đề cập đến thế giới xung quanh trẻ, từ các loài vật (khổ 13), loài cây (14), các cảnh quan quen thuộc như sông, núi, đất (khổ 15) cho đến các dạng kim loại (khổ 16). Từ khổ 17 đến 21 đề cập đến nòi giống, vị trí địa lí đất nước, lịch sử dân tộc qua các đời, sự phát triển của dân tộc và cuối cùng là khuyên trẻ em nên học “chữ Lang Sa” và “đạo thánh Khổng”.

Cuốn thứ hai, Lên tám, viết cho đối tượng trẻ tám tuổi, khi các em đã biết đọc, biết viết, do đó không còn phần Hướng dẫn tập đọc mà tiến thẳng đến Bài học. Các bài học được trình bày dưới dạng thư năm chữ, có vần điệu. Cuốn Lên tám thể hiện sự thay đổi lớn trong cách tác giả dẫn dắt trẻ em đến với tri thức, truyền tải bài học và giao tiếp với bạn đọc nhỏ tuổi. Thay vì gọi trẻ là “mày” (ở Lên sáu), cách gọi thể hiện thái độ bề trên thường thấy của các ông đồ xưa đối với học trò còn để chỏm, cuốn Lên tám thể hiện một cách tiếp cận thân thiện, gần gũi hơn. Nhà thơ dùng ngôi xưng “ta” để hóa thân vào người đọc ngầm giả định - là trẻ ở lứa tuổi lên tám, khiến lời thơ cất lên như chính tiếng lòng của đứa trẻ, chẳng hạn: Ta sinh làm giống người/ Bố mẹ đẻ ra đời/ Ăn ngon, mặc áo ấm/ Sướng hơn hết mọi loài/ Lắm lúc ta ngồi nghĩ/ Thật cũng không biết nghĩa/ Bé dại như chúng ta/ Tại sao mà sướng nhỉ? Sự thay đổi kĩ thuật tự sự này thể hiện bước tiến trong nghệ thuật viết của nhà thơ, tạo ra hiệu quả giao tiếp nghệ thuật rất lớn: cho phép trẻ khám phá tiếng lòng chính mình qua trang sách, một hiệu ứng trải nghiệm thông qua hư cấu rất đặc trưng khi người đọc bước vào thế giới nghệ thuật. Chính vì vậy, nó khiến những vấn đề nhà thơ bày ra không khô khan, giáo điều mà trở nên gần gũi, dễ thấm. Về nội dung, các vấn đề được trình bày trong cuốn sách cơ bản tương tự như ở cuốn Lên sáu, đều là những bài học hiếu kính với cha mẹ, lễ phép với thầy giáo, đưa trẻ đến với những nhận thức về vạn vật và thế giới xung quanh. Tuy nhiên, chúng được trình bày kĩ lưỡng hơn, bắt đầu giới thiệu những khái niệm khó hơn, phức tạp hơn. Chẳng hạn, nói về sự tiến hóa của con người so với muôn vật, cuốn Lên sáu viết rất đơn giản: Trong giời đất/ nhất là người/ hơn giống vật, một khẳng định minh nhiên về tư thế cao của con người so với muôn loài. Nhưng ở cuốn Lên tám, nhà thơ đã cắt nghĩa, giảng giải rất cặn kẽ về tiến trình ấy: Xưa giống người này/ cũng như loài chim, cây/ chỉ hơn có óc tốt/ một ngày hơn một ngày/ khôn dẫu ở tự óc/ thực mạnh ở công học/ tổ tiên ta ngày xưa/ học mãi thực khó nhọc/ sự học đủ mọi đường/ óc khôn ngày mở ra/ tài đức hai bề tiến/ hơn hẳn loài chim muông. Sự cắt nghĩa này giúp trẻ hiểu rằng, con người hơn loài vật không chỉ ở bộ óc tốt mà nhờ công học hành. Đó là lí do trẻ em phải học và rèn luyện để trí tuệ mở mang, đầu óc sáng láng, làm được nhiều điều có ích cho xã hội. Tương tự như thế, nội dung các bài học khác trong cuốn Lên tám không đơn giản là những sự thật “được thừa nhận” mà là những lí giải, phân tích, lập luận logic, phù hợp với sự trưởng thành về trí tuệ của trẻ lên tám. Cách truyền tải này giúp những bài học trong cuốn Lên tám trở nên dày dặn và thuyết phục.

Đặt vào tổng thể hai cuốn sách, người viết cho rằng phần Bài học ở cả hai cuốn đều mang dáng dấp sơ khai của một tác phẩm dành cho thiếu nhi. Thứ nhất, các văn bản được viết với những dụng công về mặt nghệ thuật: thể thức văn vần (hiệp vần chân), được soạn tác theo một thể thơ nhất định (Lên sáu là thơ ba chữ, Lên tám là thơ năm chữ), ngôn ngữ súc tích, phù hợp với lứa tuổi. Thứ hai, các văn bản xây dựng được kết cấu hoàn chỉnh với các phần/ đoạn rất mạch lạc, thống nhất. Thứ ba, dù được viết nhằm mục đích luyện đọc chữ quốc ngữ, hai văn bản vẫn biểu thị rõ nét các ý tưởng mang tính cá nhân mà tác giả muốn truyền tải cho người đọc nhỏ tuổi. Thứ nữa, những cải tiến của kĩ thuật tự sự đã giúp các văn bản có khả năng thâm nhập, soi rọi nội tâm người đọc trẻ em.

3. Bước đầu tìm hiểu cách tiếp cận trẻ em trong sáng tác của Tản Đà

Trước hết, Tản Đà cho thấy nhãn quan bình đẳng giới trong cách tiếp cận giáo dục ở trẻ em. Ngay trên trang bìa của hai cuốn sách, nhà thơ đã làm nổi bật thông điệp này: Sách vần quốc ngữ/ Câu ba chữ/ Giai gái sáu tuổi/ Học phải giữ(2) (Lên sáu), “Sách thơ quốc ngữ/ câu năm chữ/ giai gái tám tuổi/ học nên giữ”(3) (Lên tám). Trong Lời giới thiệu sách Lên sáu, nhà thơ tiếp tục nhấn mạnh sự ngang hàng bình đẳng giữa trẻ trai và trẻ gái: Con tiên cháu rồng/ Giống nhà Lạc Hồng/ Cả giai lẫn gái/ Mỗi ngày mỗi đông. Còn trong văn bản Lên tám, ông không còn gợi ra khía cạnh giới tính của trẻ, đồng nhất bằng ngôi xưng duy nhất “ta”, thể hiện thái độ không phân biệt “giai” - “gái” trong vấn đề giáo dục, cho thấy một tầm nhìn mới mẻ của Tản Đà so với quan niệm truyền thống. Trong quá khứ, trẻ em trai thường được ưu tiên tiếp cận tri thức, trong khi đó, trẻ em gái lại ít có cơ hội học hành. Từng là một nhà nho nhiều phen vật lộn với chuyện thi cử, nhà thơ Tản Đà đã thể hiện một tầm nhìn cởi mở về cơ hội giáo dục dành cho hai giới. Điều này phù hợp với những bước tiến của xã hội đương thời, khi tiếng nói đấu tranh cho quyền của phụ nữ bắt đầu được cất lên trên các báo, cùng với đó là mối quan tâm đến giáo dục gia đình, giáo dục trẻ em gái trong bối cảnh xã hội dịch chuyển theo hướng Âu hóa. Quan điểm này của Tản Đà trong việc biên soạn sách cũng thể hiện sự hô ứng với chủ trương của nhà nước bảo hộ đương thời trong việc mở ra cơ hội đi học cho tất cả trẻ em, không phân biệt giới tính.

Một điểm rất nổi bật thể hiện qua hai cuốn sách là sự coi trọng giáo dục thế giới quan và nhân sinh quan cho trẻ em. Những tri thức mà Tản Đà khơi gợi đều cung cấp cái nhìn tổng quát về thế giới xung quanh của trẻ, bắt đầu từ các mối quan hệ gần gũi nhất: cha mẹ, anh chị em, ông bà, cô dì chú bác, họ hàng… cho đến những tạo vật khách quan bên ngoài: các loài cây cỏ, loài vật, chim muông, sông hồ, đất đai, rồi mới đến những vấn đề rộng lớn và phức tạp hơn như: vị trí địa lí, lịch sử dân tộc và tình thế hiện tại cả đất nước Việt Nam. Cuốn sách cũng hướng đến những vấn đề thiết thực nhất trong đời sống thường nhật của một đứa trẻ: lối sống vệ sinh, vai trò của việc học… Vấn đề nào cũng được nhà thơ phân tích tỉ mỉ, không chỉ đem đến cái nhìn bao quát, giúp trẻ có một hình dung trọn vẹn về thế giới mà còn góp phần xây dựng chuẩn mực về hành vi và thái độ sống. Ở khía cạnh này, Tản Đà nỗ lực thể hiện mình như một nhà nho trong việc bồi tài đạo đức và phương châm xử thế cho trẻ em. Trong cuốn Lên tám, ông thẳng thắn chỉ ra giá trị cốt lõi mà trẻ em cần hướng đến, đó là việc học làm người: Sự học từ đâu trước?/ Trước nhất từ luân thường/ Luân thường ta phải hiểu/ Làm người ấy là đạo. Trong số những bài học về đạo làm người, đạo hiếu được đề cao hơn hết, chiếm dung lượng lớn nhất trong toàn bộ cuốn sách (từ khổ 10 đến 40). Bên cạnh đó, phép ứng xử trọng tình với anh chị em ruột, giữ lễ, nghĩa với với ông bà tổ tiên, cô dì chú bác, anh em họ mạc rất được Tản Đà coi trọng. Việc giương cao những bài học đạo đức làm người cho trẻ em lớp đồng ấu cho thấy nỗ lực duy trì những chuẩn mực đạo đức truyền thống trong bối cảnh xã hội đang dần chuyển mình theo hướng hiện đại. Đó cũng là cách tác giả đề kháng trước nguy cơ băng hoại đạo đức, tổn hại nhân luân, một tâm lí bất an thường thấy khi nhà nho đối diện với khủng hoảng xã hội. Việc biên soạn hai cuốn sách cho trẻ em chính là cơ hội để ông thể hiện sự chăm lo, vun trồng và cả sự ngăn ngừa trước những tác động ấy.

Không chỉ chăm lo vun trồng luân thường đạo lí cho trẻ, Tản Đà còn thể hiện nỗ lực điều hướng trẻ em đến những vấn đề rộng lớn thuộc về quốc gia dân tộc, từ đó bồi đắp ý thức chính trị sơ khai cho đối tượng trẻ em. Để làm được điều này, Tản Đà cung cấp cho trẻ em một ảnh tượng chung về một đất nước Việt Nam mới. Trong hình dung của ông, những người dân nước Việt Nam đều sinh ra từ một cội nguồn, trẻ em cũng từ trong bọc Con Tiên cháu Rồng/ Giống nhà Lạc Hồng ấy. Điều này được nhắc lại trong phần cuối sách: Vốn xưa ta/ Nhà Lạc Hồng/ nay tên nước/ gọi Việt Nam. Sự nhắc đi nhắc lại ở mở đầu và cuối sách về tổ tiên người Việt nhằm khắc ghi trong tâm thức trẻ em ý thức về cội nguồn, gốc gác và nòi giống. Đây có thể là cách Tản Đà đề kháng lại diễn ngôn sai trái mà chính quyền Pháp rao giảng nhằm đồng hóa người Việt Nam: “Tổ tiên chúng ta là người Gô Loa” (Nos ancêtres soat Des Gaulois). Cùng với việc củng cố về mặt gốc gác, nhà thơ đã đưa đến một hình dung khá tổng thể về các khía cạnh của một đất nước Việt Nam với lịch sử “bốn ngàn năm”, các triều đại trị vì, đến phong thổ địa lí, dân số hai nhăm triệu/ cùng yêu dấu/ như anh em. Tất cả các yếu tố như gốc gác, lịch sử, con người, vị trí địa lí, các vùng miền đều góp phần kiến tạo một hình dung chung về quốc gia dân tộc. Ở điểm này, chúng ta thấy có bước tiến lớn của Tản Đà so với quan điểm Nho giáo truyền thống. Trong khi “trung quân ái quốc” là khái niệm cốt lõi của phép xử thế Nho giáo thì Tản Đà bỏ qua hoàn toàn chữ “trung” ngay cả khi ông nhắc đến dòng dõi đang trị vì Nay vua ta/ dòng họ Nguyễn. Trong cách đề cập của Tản Đà, đất nước Việt Nam như là một không gian chung của toàn thể hai mươi lăm triệu con dân Việt Nam. Do vậy, ông hướng đến một tinh thần quốc dân khi nói với trẻ em về đất nước, về lịch sử dân tộc. Từ đó, bài học mà ông gửi gắm không phải lòng trung mà là lòng yêu nước, niềm tự hào, tự tôn dân tộc: Mày đẻ ra/ là người Việt/ mày phải biết/ yêu nước Nam.

Tựu trung, là một tác giả xuất bản sách cho trẻ em từ rất sớm, Tản Đà trước hết thể hiện sự ủng hộ của ông với chính sách giáo dục mới của chính quyền bảo hộ trong việc đóng góp hai tài liệu cho nền giáo dục tiểu học lúc bấy giờ. Sách của ông vừa dạy cho học sinh vỡ lòng cách viết, cách đọc chữ quốc ngữ, vừa cung cấp tri thức nền tảng về thế giới và các phương châm ứng xử cho trẻ em. Vừa mang tính chất của cuốn sách giáo khoa lại vừa thể hiện dáng dấp của một sản phẩm nghệ thuật, hai cuốn sách thể hiện mối quan tâm của Tản Đà với tư cách trí thức dân tộc trong việc tác động đến tâm thức trẻ em, lực lượng mầm non tương lai của đất nước. Ở phương diện này, sách đã góp phần kiến tạo nên những phẩm chất của con người mới trong bối cảnh xã hội giao thời: một mặt giữ gìn phép ứng xử theo luân thường đạo lí truyền thống như hiếu kính, trọng lễ nghĩa, trọng tình, giữ đức hạnh, mặt khác thể hiện những ứng xử hợp thời như tinh thần bình đẳng, tư cách quốc dân, tinh thần học hỏi, ý thức trang bị tri thức để sống một đời sống xứng đáng của con người. Từ đó, hai cuốn sách cũng góp phần hướng trẻ em tới những vấn đề lớn lao và mang tính thời sự của quốc gia dân tộc, thể hiện niềm tin của nhà thơ Tản Đà vào vận mệnh đất nước trong tương lai.

N.T.K.N

--------

1.Nguyễn Bích San (2018), “Thi cử và giáo dục Việt Nam thời Pháp thuộc”, Nghiên cứu quốc tế, https://nghiencuuquocte.org.

2.Tản Đà (1928), Lên sáu, Nam Anh thư quán, Hà Nội.

3.Tản Đà (1928), Lên tám, Kim Đức Giang ấn quán, Hà Nội.

VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Khi tác giả là nguyên mẫu

Khi tác giả là nguyên mẫu

Trong thời gian này tôi cùng trung đội ở trên chốt rất gần địch. Trận địa tôi chỉ cách khu nhà hòa hợp chừng 1 cây số... (NGUYỄN TRỌNG LUÂN)

Những người tôi gặp, những chuyện tôi viết

Những người tôi gặp, những chuyện tôi viết

Tôi từng hình dung viết văn là công việc của sự hư cấu, một hành trình phác dựng thế giới từ trí tưởng tượng, nơi nhà văn tự do tạo hình mọi thứ theo ý mình... (TRẦN THỊ TÚ NGỌC)

Nguyên mẫu của tôi là những người đã phất cao cờ hồng tháng Tám năm 1945

Nguyên mẫu của tôi là những người đã phất cao cờ hồng tháng Tám năm 1945

Là người đi dọc biên giới phía Bắc, tôi có thế mạnh khi hình dung, mở ra không gian của giai đoạn lịch sử đó... (PHẠM VÂN ANH)

Các nguyên mẫu trong "Trăng lên"

Các nguyên mẫu trong "Trăng lên"

Cụ đã kể cho tôi nghe về cuộc đời của mình. Cụ nguyên là một võ sư. Cuộc đời cụ có thể viết thành một thiên tiểu thuyết... (THẾ ĐỨC)