Lịch sử triều Nguyễn qua những trang văn nữ giới

Chủ Nhật, 07/12/2025 00:06

. THÁI PHAN VÀNG ANH
 

Có thể nói, chưa bao giờ các nhà văn lại “đổ xô” viết về lịch sử như trong thời đại kĩ thuật số hiện nay. Thành tựu đa dạng mà văn học đương đại có được hiện nay không thể không kể đến sự đóng góp của tiểu thuyết lịch sử. Và trong những thành tựu của tiểu thuyết lịch sử, có sự góp sức không nhỏ của các nhà văn nữ với các tác phẩm viết về triều Nguyễn, vốn còn là một mảng trống của văn học đương đại.

1. Viết về lịch sử triều Nguyễn là một sự lựa chọn

Triều Nguyễn kéo dài 143 năm (bắt đầu từ năm 1802 và kết thúc năm 1945), đã không thôi khuấy động các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa, phong tục và văn học. Nhưng đây cũng là mảnh đất phức tạp không dễ khai thác. Đặc biệt, trong các vương triều Nguyễn, giai đoạn nội chiến Tây Sơn - Nguyễn Ánh vẫn còn là sự kiện nhiều tranh cãi, cần đối thoại. Vì vậy, các nhà văn nữ đã góp phần không nhỏ trong việc mở lối vào một thời kì đau thương và có những mặt cần làm rõ. Họ không dùng những biểu tượng vương quyền để dựng lại một thời kì lịch sử vàng son mà thiên về những đổ nát lịch sử, những phân tán lòng người, những rối ren triều chính với những biểu tượng thiên về tính âm để làm rõ hơn cõi bên trong của tâm hồn con người. Lịch sử hiện ra từ những mảnh ghép tâm hồn. Nhiều mảnh ghép làm nên một giai đoạn lịch sử. Qua đó, người đọc có cảm giác đang sống trong thời đoạn lịch sử ấy, được khóc cười căm giận yêu thương cùng với nhân vật và đặc biệt là cảm giác được đối thoại với lịch sử, đối thoại với nhà văn - người kể chuyện lịch sử - qua hàng loạt vấn đề, câu hỏi vang lên từ những trang văn.

Từ Dụ thái hậu là một trường thiên tiểu thuyết gồm 69 chương. Bộ tiểu thuyết xoay quanh cuộc đời của Từ Dụ thái hậu, từ khi là cô gái tên Phạm Thị Hằng, con gái viên quan đại thần Phạm Đăng Hưng cho đến lúc ở vị trí đỉnh cao thái hậu. Thời gian lịch sử được tái hiện trong tiểu thuyết là 30 năm qua các đời vua Gia Long, Minh Mạng và Thiệu Trị. Như một sự tiếp nối dòng chảy lịch sử triều Nguyễn, Công chúa Đồng Xuân viết về những sự kiện lịch sử đầy biến động trong khoảng thời gian 40 năm từ 1859 đến 1900 từ đời vua Tự Đức đến đời vua Đồng Khánh. Dẫu lấy tên một vị công chúa làm nhan đề tác phẩm, nhưng cuốn tiểu thuyết đề cập những biến động dữ dội trong vương triều, những vị vua chỉ thoáng qua trên ngài vàng như Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc, Hàm Nghi, Đồng Khánh; những xung đột giữa triều đình và Pháp; những cuộc tàn sát giáo dân... Ở cả hai bộ tiểu thuyết, với kết cấu tuyến tính, Trần Thùy Mai tái hiện một cách sinh động chiều dài lịch sử với nhiều sự kiện đau thương.

Tập trung viết về triều Nguyễn là một sự lựa chọn của Trường An. Chủ động chọn vấn đề khó, nhằm giải mờ, giải thiêng và cả chiêu tuyết cho nhiều nhân vật lịch sử của triều Nguyễn, Trường An đã gây ấn tượng mạnh với bộ ba tiểu thuyết lịch sử Thiên hạ chi vương, Vũ tịch, Hồ Dương. Trong cả ba cuốn tiểu thuyết này, Trường An đã chọn Gia Long Nguyễn Phúc Ánh thay vì Quang Trung Nguyễn Huệ, chọn Ngọc Bình thay vì Ngọc Hân, chọn giai đoạn xuống dốc và tan rã thay vì thời kì huy hoàng rực rỡ của Tây Sơn... làm sườn cho câu chuyện của mình. Tâm đắc với lịch sử triều Nguyễn, với quan niệm “lịch sử ghi chép rất lạnh lùng, (...) chỉ ghi chép số liệu một cách khô khan, nhiệm vụ của người viết tiểu thuyết lịch sử là phải thêm da thêm thịt cho nhân vật, số phận”, Trường An đã tái hiện sống động một giai đoạn thật nhiều vết mờ và cũng gây nhiều tranh luận gai góc trong tiến trình sử Việt.

2. Luận giải và đối thoại về những “sự thật lịch sử” của Nguyễn triều

Thiên hạ chi vương là cuốn tiểu thuyết lịch sử đặc biệt trong bộ tiểu thuyết về triều Nguyễn của Trường An. Trong tác phẩm này, nhân vật lịch sử ngỡ như rất nhạt qua cái nhìn, suy nghĩ, cảm nhận của một vị vua Xiêm La đầy mưu mô và từng trải, nhưng qua từng mảnh ghép đối thoại, độc thoại nội tâm, dòng ý thức, chúa Nguyễn Phúc Thuần hiện ra đầy đặn một chân dung. Dựng lại chân dung Nguyễn Phúc Thuần, tác giả đã xây dựng tính cách nhân vật từ điểm nhìn đa diện. Một mặt, từ cái nhìn của vị Phật vương của Xiêm La, vị chúa triều Nguyễn, cậu thiếu niên mười sáu tuổi “rữa nát từ tận trong bản chất”, “là một đứa trẻ đã chết khi còn đang sống”. Cảm xúc đồng tính với những phức cảm bên trong là cách nhà văn dựng chân dung chúa Nguyễn Phúc Thuần qua cảm nhận của kẻ thù: “Đó không phải là tình yêu. Vĩnh viễn, y biết, đó không phải là tình yêu”. Điểm nhìn của người kể chuyện cũng thường xuyên được di chuyển vào điểm nhìn của nhân vật để nhìn nhận và đánh giá các sự kiện lịch sử từ cảm xúc, ý nghĩ của người trong cuộc. “Có điều gì còn đau đớn hơn thế, tàn liệt hơn thế, đã xảy ra trong đêm ấy. Khoảnh khắc mà hai kẻ thiếu niên nhìn thấy nhau trong bóng tối, dưới ánh trăng lạnh. Bóc trần nhau trong bóng tối. Nhận ra nhau trong bóng tối. Những vết dập nát hiển hiện rất rõ trong bóng tối”. Cái khách quan của lịch sử lúc này đã được nhìn từ cái nhìn chủ quan của người kể chuyện.

Tiểu thuyết lịch sử của Trường An là những cuộc đối thoại đầy chất triết lí. Có lúc nhà văn ẩn mình sau các nhân vật để đối thoại với những vấn đề lớn về lịch sử. Đó là một Quang Toản khôn nguôi dằn vặt về sứ mệnh đế vương: “Rốt cuộc, ta làm vua để làm gì?”, “Nhưng Tây Sơn nổi dậy có phải là sai không? Không. Chúng ta chiến thắng. Chúng ta có thể tự hào. Chúng ta là cơn lũ quét sạch những tranh chấp trên đất nước này”; “Nhưng tại sao lại có chiến tranh, tại sao chúng ta nổi dậy, tại sao chúng ta thất bại, ý nghĩa của sự tồn tại, đã từng tồn tại của chúng ta là gì?” (Vũ tịch). Đó là một Gia Long dùng oán thù chống lại oán thù bởi “oán thù là mục đích, oán thù cũng là phương tiện”. Bằng cách để cho nhân vật vua Gia Long đối thoại với Ngọc Bình, cô công chúa “con vua lại lấy hai chồng làm vua” vốn chấp nhận theo ông, bởi lời hứa sẽ giữ gìn đất nước bằng bất cứ giá nào của một vị vua mới. Với Vũ tịch, Trường An đã bênh vực, chiêu tuyết đồng thời cho cả ba nhân vật bị vướng vào nhau bởi những éo le của lịch sử: Gia Long, Ngọc Bình, Quang Toản. Ngọc Bình tiếp tục sống trong sự dè bỉu của người đời và sử sách để cái chết của Quang Toản, của dòng họ Tây Sơn còn có giá trị; bởi đem lại hòa bình cho đất nước cũng là điều mà Quang Toản, người chồng đầu tiên của nàng, vẫn hằng ước mơ. Gia Long giữ Ngọc Bình bên cạnh kể cả khi nàng không bao giờ tha thứ cho ông, bởi như ông đã nói mà không hề lảng tránh ánh mắt nàng “Giữ một người như nàng bên cạnh là gánh nặng của ta. Nếu thấy ta đi chệch đường, nàng sẵn sàng trả mối thù ấy phải không?”, cùng cái gật đầu xác quyết ở vị tam phi của tân triều.

Trong truyện lịch sử của các nhà văn nữ, nhà văn/ người kể chuyện thường hóa thân vào nhân vật lịch sử để đối thoại, độc thoại. Lịch sử được tái hiện với nhiều chiều kích, đặc biệt là chiều sâu tâm hồn. Lời độc thoại miên man xuyên suốt chiều dài các tác phẩm của Nguyễn Thị Kim Hòa, Trường An. Nhiều đoạn đối thoại trong tác phẩm của Trần Thùy Mai cũng là những lời độc thoại dài với điểm nhìn người kể chuyện được di chuyển vào nhân vật. Có thể nói, hóa thân vào nhân vật và kể chuyện từ điểm nhìn bên trong, cả ba nhà văn nữ Trần Thùy Mai, Trường An, Nguyễn Thị Kim Hòa đều đã nhìn thấu nỗi cô đơn của sứ mệnh đế vương và bi kịch của nhiều nhân vật lịch sử bị lôi kéo vào trò chơi, tham vọng đế vương của họ.

Diễn giải lịch sử từ những chuyện “có thể có” thay vì chuyện “đã có” cũng là một cách để các nhà văn “nhìn” lịch sử từ mong muốn nó “có thể là” thay vì nó “đã là”. Từ một sự kiện được ghi chép trong sử sách - con gái út của vua Thiệu Trị, Nguyễn Phúc Gia Phúc góa chồng năm 26 tuổi, vì tư thông với anh trai mà bị vua Hàm Nghi phế thành thứ dân, mãi đến đời vua Đồng Khánh mới được phục vị công chúa, sau đó mất vào năm 41 tuổi - Trần Thùy Mai đã thương cảm cho một số phận hồng nhan trước những ba đào lịch sử mà viết nên tiểu thuyết Công chúa Đồng Xuân, lật lại một trong những vụ án tai tiếng bậc nhất triều Nguyễn. Những điểm mờ của lịch sử, những mưu đồ chính trị mà xưa nay không ít nữ giới bị biến thành công cụ... trở thành điểm tựa để Trần Thùy Mai viết lại một lịch sử “khác” - lịch sử của một người đàn bà hoàng tộc nhiều khao khát và trở thành tội đồ của lễ giáo, của gia quy; lịch sử của một giai đoạn triều Nguyễn gắn với những thân phận và bi kịch nữ giới. Không tin vào những nghi vấn chưa được xác thực của một số nhà nghiên cứu lịch sử về mối quan hệ giữa Trương Đăng Quế và Phạm Thị Hằng, cội nguồn của việc vua Thiệu Trị phế trưởng lập thứ, để cuối cùng Hồng Nhậm (nghi vấn là con của Trương Đăng Quế) lên ngôi, dẫn đến việc Hồng Bảo nổi loạn và loạn chày vôi sau đó, Trần Thùy Mai đã dệt nên một mối ân tình sâu nặng, vẹn nghĩa, trọn tình của Từ Dụ thái hậu đối với vị thượng thư đầu triều. Từ điểm nhìn nữ giới, thay vì tập trung vào những tranh giành quyền lực và các lũng đoạn của đại thần, Từ Dụ thái hậu của Trần Thùy Mai đã tô đậm vẻ đẹp nết na, hiền hậu của Phạm Thị Hằng, từ khi chỉ là một thiếu nữ con nhà gia thế, đến khi ở tột bậc ngôi cao, qua một mối tình đơn phương “có thể có” của người bạn thanh mai trúc mã Trương Đăng Quế, bằng những hình dung của nhà tiểu thuyết. Lịch sử qua trang văn của các nhà văn nữ vì thế là một lịch sử của cảm xúc hơn là lịch sử của những sự kiện chỉ được chép lại bởi những trang sử vô cảm, lạnh lùng. Có thể nói, trong tương quan với các nhà văn nam, tự sự hư cấu về lịch sử của các nhà văn nữ ít nhiều đã mang một dáng hình “khác”, làm phong phú thêm những hình dung của văn học về những biến cố, sự kiện, những cuộc đời, số phận đã lùi xa. Từ những góc nhìn đa dạng, các nhà văn nữ đã đối thoại với lịch sử triều Nguyễn, “buộc” người đọc từ những trang văn suy ngẫm sâu hơn về lịch sử, về thời cuộc. Luận giải, đối thoại với lịch sử; đa dạng hóa điểm nhìn nhưng vẫn giữ độ chân thật; hư cấu nhưng không làm biến dạng những câu chuyện lịch sử phức tạp một thời... lịch sử triều Nguyễn qua các trang văn nữ giới không chỉ đã sống mà còn đang sống.

3. Những bi phận hồng nhan triều Nguyễn

Tiểu thuyết lịch sử ngoài những sự kiện trọng đại còn khắc họa những mối tình, những cuộc hôn nhân lịch sử. Xây dựng hình ảnh những giai nhân là điều quen thuộc trong bất kì cuốn tiểu thuyết lịch sử nào. Nếu không có những mối tình theo motif anh hùng - mĩ nhân trong các tác phẩm văn chương, những sự kiện lịch sử chỉ là những sự kiện chết. Viết về lịch sử thời Trần, Uông Triều dựng nên mối tình vượt nghi lễ triều đình giữa Trần Khánh Dư và công chúa Thuận Thiên (Sương mù tháng giêng). Trần Thanh Cảnh hư cấu mối tình ngang trái giữa Thoát Hoan và An Tư công chúa (Đức Thánh Trần). Từ một góc nhìn, các nhà văn nói trên chỉ khắc họa giai nhân để tăng thêm nam quyền. Trong khi đó, các nhà văn nữ, nhìn lịch sử từ một góc khác, cái nhìn từ bi phận hồng nhan. Đi vào lịch sử triều Nguyễn, các nhà văn nữ chú ý nhiều đến số phận của những người đàn bà bên ngai vàng, trong cung cấm, giữa vàng son lụa là trong thâm cung lạnh lẽo.

Từ cái nhìn của Trường An, “Những cuộc hôn nhân chính trị - tiếng là để mưu cầu lợi ích cho cả hai bên - nhưng thực sự chỉ là công cụ của kẻ mạnh hơn. Những kẻ yếu đuối dựa dẫm, những kẻ ít khôn ngoan và sáng suốt rất dễ dàng lọt vào cái bẫy này. Như vua Chiêm Thành, Chân Lạp đã lọt bẫy của các công nữ họ Nguyễn, như Hoàng tôn họ Nguyễn đã lọt bẫy bọn phản loạn, và bây giờ đến lượt vua Bắc Hà” (Thiên hạ chi vương). Như thế, liệu phụ nữ xuất thân hoàng tộc có hạnh phúc hơn phụ nữ thứ dân? Mở đầu truyện ngắn Lửa hoàng cung, Trần Thùy Mai đã để người kể chuyện giới thiệu về số lượng công chúa có thể được “sản sinh” trong một triều vua trị vì: “Năm ấy nhà vua đã gần sáu mươi tuổi. Hằng ngày, cung tần mĩ nữ vẫn được tuyển thêm. Ròng rã hơn mấy mươi năm, tháng nào hậu cung cũng có một hoàng nam hay một công chúa mới ra đời. Tính đến năm thứ hai mươi bốn trị vì, nhà vua đã có đến ba mươi tư con trai và sáu mươi chín con gái”. Và với cái kết ấn tượng, Lửa hoàng cung của Trần Thùy Mai đã khái quát khá rõ số phận của những người phụ nữ bị trói buộc bởi vương triều phong kiến. Trừ cô công chúa Quỳnh Thơ đã được đưa ra khỏi nhà ngục như một huyền thoại khi nghĩa quân nổi dậy trong loạn chày vôi, “Còn sáu mươi tám nàng công chúa khác trong cung thì sách vở còn chép rõ về cuộc đời của họ. Có ba mươi nàng được gả cho những ông phò mã lọm khọm với tấm lưng dài cong gập trong chiếc áo the. Còn ba mươi tám nàng thì chết già trong cung, nhiều nàng chết lúc còn rất trẻ vì buồn chán những đêm nguyên tiêu lạnh”. Những con số liệt kê chỉ là cách để nhà văn tô đậm thêm bi kịch hồng nhan. Ở nhiều truyện ngắn, từ điểm nhìn giới, Trần Thùy Mai đặc biệt quan tâm đến bi kịch của những người phụ nữ hữu danh lẫn vô danh bị lôi kéo vào những tranh chấp quyền lực, hay những cơn binh biến liên miên trong lịch sử Nguyễn triều (Thể Cúc, Nàng công chúa té giếng, Án lục về dâm nữ họ Tống). Đặc biệt, điều khiến Trần Thùy Mai “ghi điểm” nhất trong tiểu thuyết, chính là việc nhà văn đã dựng nên một cách sống động, chân thực và hấp dẫn cuộc sống phía hậu cung, điều mà chính sử không ghi chép lại nhiều. Trần Thùy Mai đã vén tấm rèm lấp lánh của cung đình, để soi rọi vào cuộc sống nơi tử cấm thành, tưởng như êm đềm với những cung tần mĩ nữ, những hoàng hậu, hoàng thái hậu chỉ biết chuyên tâm chuyện phấn son váy áo, nấu nướng thêu thùa, sinh con đẻ cái cho hoàng tộc mà hóa ra nhiều sóng gió hơn cả chốn triều chính ngoài cung điện. Những mưu mô kinh hoàng nơi hậu cung không chỉ tác động tới thân phận bao con người trong đó mà còn có thể làm chao đảo triều chính, dập vùi bao đại thần trung chính, tài năng; thậm chí có thể quyết định vận mệnh của cả sơn hà.

Bi kịch hồng nhan là motif quen thuộc khi viết về lịch sử dưới tầm nhìn hiện đại. Trong tác phẩm của các nhà văn nữ, chân dung, cá tính, số phận, cuộc đời của các nhân vật nữ hiện ra khá đa dạng. Lịch sử qua cái nhìn của nữ giới, gắn với số phận nữ giới cũng mang nhiều dáng vẻ, nhiều giả thuyết. Đó là một nhị phi khôn ngoan, quyền lực, có sức ảnh hưởng lớn đến cả hai triều vua Minh Mạng và Thiệu Trị song vẫn đau khổ vì ghen tuông (Từ Dụ thái hậu). Đó là công chúa Đồng Xuân, góa chồng từ năm 26 tuổi và bị giáng thành thứ dân, bởi không thể kìm nén những khao khát dục tình trong những tháng ngày cô đơn, lẻ bóng (Công chúa Đồng Xuân). Đó là Thể Cúc, con gái của Tùng Thiện vương Miên Thẩm, sau rốt đã hóa điên khi người chồng Đoàn Trưng cùng toàn bộ gia tộc nhà chồng đã bị xử chết vì một cuộc nổi loạn bất thành (Thể Cúc). Đó là Ngọc Du, chị gái của Nguyễn Ánh, đã sống cả đời trong niềm hận thù và tuyệt vọng, khi Võ Tánh, vì hết lòng phụng sự cho em trai của bà, đã để bà lại trong nỗi cô quạnh với những ước mơ dang dở (Hồ Dương)...

Trong số nữ nhân triều Nguyễn, Ngọc Bình có lẽ là nhân vật được nhiều nhà văn quan tâm nhất, bởi thân phận đặc biệt của nàng khi vừa là người trong cuộc vừa là chứng nhân của bao xáo trộn lịch sử gắn liền với nhiều triều đại. Ngọc Bình trong hình dung của Trần Thùy Mai là một thiếu nữ tội nghiệp, 16 tuổi đã bị kéo ra khỏi làng quê yên bình, mặc áo thêu, đội mũ phượng ngồi bên mình ông vua trẻ mới 20 tuổi song không còn nhuệ khí của tuổi hai mươi bởi luôn bị ám ảnh về những lần thất trận hãi hùng và viễn cảnh rùng rợn của hồi chung cuộc. Ngay cả sau này thành đức tam phi và được Nguyễn Ánh yêu chiều, Ngọc Bình vẫn luôn bị xem là một ngụy nữ, một công cụ để đáp ứng cái thống khoái của vị vua đầu triều Nguyễn, cái thống khoái như khi nhà vua đứng nhìn quân sĩ quật mộ ba vua nhà Tây Sơn, nhưng không chỉ một lần mà kéo dài, lần này sang lần khác, đáp ứng những khao khát báo thù sâu thẳm trong vô thức (Nàng công chúa té giếng). Trong tiểu thuyết của Trường An, Ngọc Bình được soi chiếu từ nhiều điểm nhìn. Trong những đàm tiếu, dị nghị của dân tình, số phận của nàng có thể cũng không hơn Lý Chiêu Hoàng, bởi “thời đại loạn li này, đã là phận hồng nhan, lại sinh ra trong hoàng tộc thì đúng là viên ngọc rơi vào vũng lầy mà thôi”. Từ cái nhìn thương cảm của Tống Vương hậu, Ngọc Bình mang vẻ “trắng trong hơn cả nước hồ, yểu điệu hơn liễu, phong nhã hơn hoa”, “còn trẻ mà sự thê lương u uất in cả vào dáng hình, tuyệt không phải là người có phúc”. Đố kị và ghen tuông, Trần phi đánh giá về tam phi từ cái nhìn đạo đức: “Nàng công chúa này tuy có vẻ băng tuyết, nhưng đôi mắt long lanh, dáng dấp phong nhã, là kẻ lụy tình mà cũng khiến người khác rơi vào lưới tình, tuyệt đối không phải phong vận của một cô gái đoan trang đứng đắn”. Nghĩ về nàng, Quang Toản lại đau đớn, nàng tên là Bình nhưng lại là bèo trôi, nào có bình an. Đặc biệt, tôn trọng và hàm ơn cô gái trẻ thua ông 20 tuổi nhưng lại “có sự trong sáng, tỉnh táo và độ lượng đã bị tiêu diệt, xóa sạch trong ông từ rất sớm”, Nguyễn Ánh đã thừa nhận, ông gần nàng hơn bất kì ai. Nhưng ông cũng luôn có cảm giác mình sẽ đánh mất nàng bất cứ lúc nào, bởi luôn có một khoảng tối trong đôi mắt đen hút như vực sâu của nàng, “khiến nàng có vẻ chênh chao, bất định, càng có dáng vẻ của một người đang rơi xuống, khôn bề chế ngự bản thân”. Trong mắt vị vua đầu triều Nguyễn này, khoảng tối ấy luôn ở mãi bên Ngọc Bình như một cái bóng mà chỉ cần quay lại, nàng sẽ trông thấy nó và không bao giờ thoát được; “nó dần nuốt chửng nàng, phủ lên nàng cái đẹp mê đắm, đớn đau”. Còn Ngọc Bình, khi nghĩ về mình trong những so sánh thầm với người chị gái bạc phận Ngọc Hân, cũng đã đau đớn thốt lên: “Vậy là mẹ con chị sẽ được về quê… Còn nàng, tâm nguyện cả đời này là gì? Nàng cũng không biết, không cần biết nữa. Dù sao thì nó cũng chẳng bao giờ thực hiện được”… Có thể nói, với tiểu thuyết Vũ tịch, Trường An đã dựng lại chân dung Ngọc Bình từ nhiều điểm nhìn. Song, từ bất kì một góc nhìn nào, những bi ai trong thân phận của nàng cũng luôn được thể hiện rõ qua tên gọi, qua dáng hình, hay qua cả nội tâm sâu thẳm. Dường như toàn bộ những bi kịch hồng nhan triều Nguyễn đều đã được dồn tụ ở số phận cô công chúa “con vua lại lấy hai chồng làm vua” này, qua cái nhìn của các nhà văn nữ.

Chọn viết về triều Nguyễn, các nhà văn nữ đã từ góc nhìn giới để nhận diện một giai đoạn lịch sử gắn liền với quyền lực đàn bà; với những nỗi đau phụ nữ bất chấp địa vị ngôi cao - một lịch sử của những thăng trầm, trả giá bởi những tranh đoạt, đánh đổi vì tham vọng, vì tình yêu của những người đàn bà không yên phận. Đó còn là lịch sử của những nữ nhân vô danh, những thân phận cung nữ bé mọn chết oan ức hay vùi chôn tuổi xuân trong cung cấm. “Đàn bà trong chiến loạn phận mỏng còn hơn cỏ…” (Nguyễn Thị Kim Hòa). Một lịch sử đang sống chứ không phải đã sống hiện ra sinh động trên trang viết của các nhà văn nữ. Một thế giới đàn bà với những can dự đáng kể vào số phận của lịch sử được tái hiện rực rỡ, bất chấp những tủi hổ, sầu muộn, đắng cay. Có thể nói đã có một lịch sử triều Nguyễn thật đặc biệt qua trang viết của các nhà văn nữ - một lịch sử của những bi phận hồng nhan, một lịch sử đã được hư cấu và luận giải, đối thoại từ điểm nhìn của nữ giới.

T.P.V. A

VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Khi tác giả là nguyên mẫu

Khi tác giả là nguyên mẫu

Trong thời gian này tôi cùng trung đội ở trên chốt rất gần địch. Trận địa tôi chỉ cách khu nhà hòa hợp chừng 1 cây số... (NGUYỄN TRỌNG LUÂN)

Những người tôi gặp, những chuyện tôi viết

Những người tôi gặp, những chuyện tôi viết

Tôi từng hình dung viết văn là công việc của sự hư cấu, một hành trình phác dựng thế giới từ trí tưởng tượng, nơi nhà văn tự do tạo hình mọi thứ theo ý mình... (TRẦN THỊ TÚ NGỌC)

Nguyên mẫu của tôi là những người đã phất cao cờ hồng tháng Tám năm 1945

Nguyên mẫu của tôi là những người đã phất cao cờ hồng tháng Tám năm 1945

Là người đi dọc biên giới phía Bắc, tôi có thế mạnh khi hình dung, mở ra không gian của giai đoạn lịch sử đó... (PHẠM VÂN ANH)

Các nguyên mẫu trong "Trăng lên"

Các nguyên mẫu trong "Trăng lên"

Cụ đã kể cho tôi nghe về cuộc đời của mình. Cụ nguyên là một võ sư. Cuộc đời cụ có thể viết thành một thiên tiểu thuyết... (THẾ ĐỨC)