Nghiên cứu thơ Hồ Chí Minh từ góc nhìn tu từ học trào phúng

Thứ Ba, 28/03/2017 09:28
. TRẦN ĐỨC HỢP            
                                                        
       Hồ Chí Minh là nhà thơ lớn, một hiện tượng thơ độc đáo đặc sắc không chỉ trong văn học hiện đại phương Đông mà là cả trong văn chương thế giới đương đại, đa dạng về đề tài, nhiều vẻ về phong cách, phong phú về hình thức biểu hiện, giàu có về ý nghĩa. Thơ Người cổ điển mà hiện đại, truyền thống mà giàu tính cách tân, giản dị nhưng sâu sắc, do vậy rất cần nhiều hướng tiếp cận, nhiều lối phân tích mới có thể đi tìm thêm những vẻ đẹp cả về nội dung lẫn thi pháp. Chúng tôi đặt vấn đề nghiên cứu thơ Hồ Chí Minh từ góc nhìn tu từ học trào phúng, hướng tiếp cận hầu như chưa có người đặt ra.

   1. Tương phản trào phúng.

  1.1. Tương phản trong thơ chữ Hán.
     1.1.1. Tương phản nhân vật

     Nhật ký trong tù là sự thể hiện sinh động cuộc vượt ngục về tinh thần của một người tù nhân vĩ đại: Hồ Chí Minh. Là một nhà biện chứng Bác Hồ luôn phân biệt cuộc sống vật chất và cuộc sống tinh thần: “Thân thể ở trong lao/ Tinh thần ở ngoài lao” (Quyển đầu), “Vật chất tuy đau khổ/ Không nao núng tinh thần” (Bốn tháng rồi). Tinh thần nhiều khi hoàn toàn tương phản với cuộc sống vật chất: “Nghĩ mình trong bước gian truân/ Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng” (Tự khuyên mình). Sau này khi đã 78 tuổi ở cương vị Chủ tịch Nước, Bác Hồ vẫn nhất quán với quan niệm cần có trước hết một cuộc sống tinh thần “phấn chấn”: “Thuốc không rượu chẳng có mừng xuân/ Dễ khiến thi nhân hóa tục nhân/ Trong mộng thuốc thơm và rượu ngọt/ Tỉnh ra thêm phấn chấn tinh thần” (Hai chớ). Chính điều này đã phần nào bộc lộ một phương diện về chân dung con người Bác: một vị tiên trong đời thực. Do vậy đã tạo ra một nét thi pháp tương phản trong thơ, tương phản giữa tuổi tác cao và tinh thần trẻ: “Chưa năm mươi đã kêu già/ Sáu ba, mình nghĩ vẫn là đương trai”; tương phản giữa cương vị trọng trách cao, sang trọng, bận rộn với lối sống giản dị, đời thường, nhàn tản, thanh bạch: “Sống quen thanh đạm nhẹ người/ Việc làm tháng rộng ngày dài ung dung” (Sáu mươi ba tuổi); tương phản giữa công việc quan trọng của “đại sự quốc gia” với công việc của một người ông chăm chỉ, yêu thương con cháu trong gia đình lão nông bình thường: “Việc quân việc nước đã bàn/ Xách bương dắt trẻ ra vườn tưới rau” (Không đề); tương phản giữa công việc làm thơ và việc quân: “Trăng vào cửa sổ đòi thơ/ Việc quân đang bận xin chờ hôm sau” (Tin thắng trận). Dĩ nhiên việc quân việc nước được toàn tâm toàn ý: “Cụ Đổng tặng tôi bài thơ dài/ Tôi muốn làm thơ họa lại Người/ Nhưng việc nước nhà đang chống Mỹ/ Hoàn toàn chiếm trọn trái tim tôi” (Bài thứ tư). Ngay ở hình thức tương phản trong phần thơ chữ Hán này cũng cho thấy chủ thể trữ tình luôn được thể hiện ở nhiều tư cách khác nhau ở cả hai phương diện đời sống tinh thần và đời sống thực tế, từ vị tiên đến thân phận người tù, từ vị thế Chủ tịch nước đến tư thế người nông dân, từ ông già đến người trẻ tuổi…Tóm lại đó là một con người có sự trải nghiệm vô cùng phong phú, hết sức tinh tế. Đây là những căn cứ chính xác nhất, có sức thuyết phục nhất về con người vĩ đại Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hòa, đặc sắc của nhiều nhân cách vĩ đại!

      Hình tượng người tù trong Nhật ký luôn tương phản với hình tượng người tiên, người tự do, người khách quý, nói đúng hơn là người tù ấy không chịu chấp nhận thân phận người tù mà luôn vươn lên tư cách người tiên, người tự do, khách quý…Còn là sự tương phản giữa tư cách tù nhân và tư cách thi nhân: “Ngâm thơ ta vốn không ham/ Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây” (Mở đầu); giữa tư cách tù nhân với tầm trí chiến lược của nhà quân sự: “Tù túng đem cờ học đánh chơi” (Học đánh cờ); tương phản giữa hoàn cảnh “Trong ngục người nhàn nhàn quá đỗi” với “Chí cao mà chẳng đáng đồng trinh” (Buồn bực)… Có thể lý giải thế này chăng: trong tù phải sống cùng những tương phản mà con người nhà thơ Hồ Chí Minh rất nhạy cảm với những sự tương phản!? Đó là cảnh ngộ giữa tác giả và Nê - Ru: “Đôi ta cảnh ngộ vốn không khác/ Cảnh ngộ giờ đây khác bội phần/ Tôi, chốn lao tù người bạn hữu/ Anh, trong gông xích bọn cừu nhân” (Gửi Nê-Ru). Đó là sự tương phản đối lập gay gắt giữa quan tòa và phạm nhân, ở giữa hai cực đó “công lý đứng làm thần” (Lời hỏi). Đứng trước công lý thì quan tòa (ở xã hội phản động ấy) và phạm nhân chỉ bình đẳng như nhau, ai cũng có tội cả. Phải chăng còn một ý nghĩa này: khi bình thường thì con người ta nhất quán nhưng khi phải đối diện với công lý thì thường bị sa vào tình trạng “lưỡng cực” vì thiếu bản lĩnh mà không còn là chính mình nữa: “Quan rằng: anh có tội/ Phạm thưa: tôi lương dân/ Quan rằng: anh nói dối/ Phạm thưa: thực trăm phần/ Quan tòa vốn tính thiện/ Làm ra vẻ dữ dằn/ Muốn khép người vào tội/ Lại giả bộ ân cần”. Một bài học được rút ra: khi xem xét bản chất con người thì phải trả con người về môi trường sống quen thuộc, thông thường, bình thường. Tôi hiểu đây là mối quan hệ biện chứng: môi trường chi phối tính cách, muốn con người nhân tính hơn phải tạo ra một môi trường có nhân tính.

      Đó là tương phản trời vực giữa những tù nhân và những kẻ giàu sang phú quý: “Quyển xưa sách mới bồi thêm ấm/ Chăn giấy còn hơn chẳng có chăn/ Trướng gấm, giường ngà ai có biết?/ Trong tù bao kẻ ngủ chẳng an” (Chiếc chăn giấy của người bạn tù); tương phản giữa tù nhân và quản ngục: “Hút thuốc nơi này cấm gắt gao/ Thuốc anh nó tịch bỏ vào bao/ Nó thì kéo tẩu tha hồ hút/ Anh hút còng đây tay ghé vào” (Cấm hút thuốc); tương phản trong một người bạn tù: “Con nhà giàu có, nghèo gia giáo/ Đánh bạc gan trời, mật tựa kim/ “Một tấc lên mây”, ghê gớm thật/ Ngồi tù mà vẫn ước nhân sâm” (Bạn tù họ Mạc); tương phản giữa các nhân vật nổi tiếng trong truyền thuyết với người tù: “Di, Tề chẳng ăn gạo nhà Chu/ Tù bạc chẳng ăn cháo nhà nước/ Di, Tề chết đói ngàn Thú Dương/ Tù bạc chết đói trong nhà ngục” (Lại một người nữa…). Bá Di, Thúc Tề là con vua nước Cô Trúc triều đại nhà Thương, vì phản đối Chu Vũ Vương đưa quân diệt nhà Thương dựng nên nhà Chu nên hai ông không chịu ăn gạo nhà Chu mà lên núi Thú Dương ở ẩn và chịu chết đói ở đó. Bá Di Thúc Tề là những bậc đại nhân hoàn toàn tương phản với người tù vì tội cờ bạc. Đặt trong thế tương phản này có lẽ nên hiểu là người tù cờ bạc không được ăn cháo nhà nước nên mới chết đói. Điều ấy càng thấy sức tố cáo lớn về một “nhà nước” phi nhân tính…

          1.1.2.Tương phản không gian

         Vì ở trong tù nên người tù luôn sống trong hai không gian, thân thể trong không gian nhà ngục nhưng tinh thần luôn hướng ra không gian tự do bên ngoài: “Trong ngục giờ đây còn tối mịt/ Ánh hồng trước mặt đã bừng soi” (Buổi sớm), “Mơ thấy cưỡi rồng lên thượng giới/ Tỉnh ra trong ngục vẫn nằm trơ” (Buổi trưa). Nhật ký không chỉ đầy trăng, đầy ánh mặt trời, đầy mùa xuân mà tương phản với chúng là đầy bóng tối, đầy u ám, lạnh lẽo của mùa đông: “Ví không có cảnh đông tàn…” (Tự khuyên mình),  “Gà gáy một lần đêm chửa tan” (Giải đi sớm)…Nhưng đặc điểm của không gian bóng tối lạnh lẽo này không hề chết cứng, tĩnh tại mà luôn vận động hướng về ánh sáng ấm áp: “Bóng tối đêm tàn quyét sạch không” (Giải đi sớm)…. Người tù luôn có ý thức phủ nhận triệt để không gian tù đày bằng cách lấy chính chủ thể trữ tình của mình để tạo ra một không gian khác. “Biết chăng trong ngục có người khách tiên” (Quá trưa), vì có “khách tiên” nên ngục không còn là ngục nữa mà trở thành không gian nơi tiên ở. Tù nhân chơi nhạc nên nhà tù “Bỗng biến thành nhạc quán viện hàn lâm” (Chiều hôm)…

      Cái cầu nối hai bức tranh tương phản trong tù và ngoài tù ở bài Người bạn tù thổi sáo là âm thanh khúc nhạc nhớ quê hương mà người tù nhớ nhà gửi lòng mình. Nước non xa cách ngàn trùng, nỗi nhớ khôn nguôi, cảm thương vô hạn, vợ của người tù bước lên một tầng lầu nữa, cố nhìn trong vô vọng hình bóng người chồng. Nàng Vọng phu nước Việt trèo lên tận đỉnh núi ngóng chồng. Trong hoàn cảnh, tâm trạng ấy, nàng Vọng phu phương Bắc cũng cố trèo lên lầu cao. Tôi cứ nghĩ nhà thơ Hồ Chí Minh đã tạc bằng ngôn ngữ thơ một nàng Tô Thị xứ Trung Hoa. Ngăn cách “trời vực” hai không gian trong và ngoài tù là cái song sắt, bên ngoài là người vợ, bên trong là người chồng (Vợ người tù đến thăm chồng). Họ chỉ còn gặp nhau nhờ “khóe mắt”. Một cảnh ngộ thật đáng thương! Lời thơ không chỉ đậm tình người mà còn là lời tố cáo “giận kẻ gian kia gây cách biệt”.

      1.1.3. Tương phản sự kiện hiện tượng
      Đó là tương phản giữa sự kiện quốc khánh vui vẻ ở nước người, trong khi đó cách mạng Việt Nam đang rất cần một lãnh tụ thì người đó lại bị tù: “Nhà nhà hoa kết với đèn giăng/ Quốc khánh reo vui cả nước mừng/ Lại đúng hôm nay ta bị giải/ Oái oăm gió cản cánh chim bằng” (Tết Song thập bị giải đi Thiên Bảo)… Cùng là tư cách đại biểu mà tương phản quá khác biệt: “Cũng là đi Trùng Khánh/ Cùng là bạn Trung Hoa/ Anh, làm khách trên sảnh/ Tôi, thân tù dưới nhà/ Cùng là đại biểu cả/ Khinh trọng sao khác xa?...” (Các báo đăng tin: Hội họp lớn hoan nghênh Uyky). Uyky là đại biểu nước Mỹ trong Liên minh quốc tế chống phát xít, tháng 10- 1942 đến thăm Trùng Khánh, thủ phủ của Quốc Dân đảng được hoan nghênh nhiệt liệt. Hồ Chí Minh với tư cách là đại biểu Phân hội Việt Nam thuộc Hiệp hội quốc tế chống xâm lược cũng đến Trùng Khánh nhưng lại bị bắt giam. Bài thơ là sự phẫn nộ, bất bình, một sự đả kích chế độ Tưởng ngu dốt, không thể phân biệt phải trái; một sự chế giễu thói đời thường ấm lạnh… Cũng là “đoàn thăm Trung Hoa” mà lại có những cách đối xử thật không công bằng: “Đoàn Mỹ đi rồi, đoàn Anh đến/ Khắp chốn mừng reo tỏ nhiệt tình/ Ta cũng một đoàn thăm quý quốc/ Lại dành riêng một lối hoan nghênh” (Đoàn đại biểu Anh sang thăm Trung Hoa).

    Nhìn dưới góc độ hình thức tương phản, bài Lai Tân không khó hiểu:
                          “Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc
                          Giải người cảnh trưởng kiếm ăn quanh
                          Chong đèn huyện trưởng làm công việc
                          Trời đất Lai Tân vẫn thái bình

.
Ba câu trên là ba hiện tượng được sắp xếp tăng cấp: ban trưởng - cảnh trưởng - huyện trưởng, ba câu này cấu trúc theo lối đẳng lập hoàn toàn tương phản với câu cuối: “Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”. Một người chuyên đánh bạc, một người chuyên ăn tiền phạm nhân, còn người cao nhất là huyện trưởng, đặt trong cấu trúc hình thức cả bài thì nên hiểu “làm công việc” theo nghĩa ẩn dụ là hút thuốc phiện. Nếu hiểu “làm công việc” theo nghĩa đen thì không phù hợp với phong cách trào phúng ý vị, hóm hỉnh, sâu sắc của tác giả. Thì ra hiện tượng “thái bình” trong câu cuối chỉ là hiện tượng giả, trái ngược với bản chất thối nát được miêu tả trong ba câu trên. Chúng tôi cho rằng tác giả đã tỉnh lược đi hai chữ thế mà ở câu cuối: (Thế mà) Trời đất Lai Tân vẫn thái bình!

1.2. Tương phản trong thơ tiếng Việt.

      Thơ tiếng Việt của Bác cũng là cả một thế giới tương phản!
      Bài thơ Tức cảnh Pác Bó là sự tương phản không gian thời gian: “Sáng ra bờ suối tối vào hang”, tương phản giữa thực tế vật chất, nơi ở nghèo tạm: hang, thức ăn đơn sơ: cháo bẹ rau măng, phương tiện làm việc thiếu thốn: bàn đá chông chênh với quan niệm: “Cuộc đời cách mạng thật là sang”, để bật ra một tiếng cười vui, lạc quan, vượt qua tất cả gian khổ để phục vụ cách mạng. Một tiếng cười vui, một tâm hồn luôn ung dung tự tại trước bất kỳ hoàn cảnh nào của bậc hiền triết phương Đông. Câu thơ “Chẳng may vận nước gian nan” như cái bản lề khép mở hai hình ảnh tương phản về trẻ em trong bài Trẻ con, hình ảnh trong quan niệm: “Trẻ em như búp trên cành/ Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan” với hình ảnh trong thực tế: “Trẻ em cũng bị bận thân cực lòng/ Học hành giáo dục đã không/ Nhà nghèo lại phải làm công cày bừa”… Lời Chúc mừng năm mới (1942) không còn là lời chúc của một người cụ thể mà là lời chúc của CÔNG LÝ CHÍNH NGHĨA: “Năm cũ qua rồi, chúc năm mới:/ Chúc phe xâm lược sẽ diệt vong!/ Chúc phe dân chủ sẽ thắng lợi!

   Trong các bài thơ có tính chất kêu gọi tuyên truyền Bác Hồ cũng sử dụng một loạt các hình ảnh tương phản. Sợi bông sợi chỉ thì yếu ớt nhưng khi dệt thành tấm vải thì bền dai (Ca sợi chỉ). Ít người không thể nhắc hòn đá nặng nhưng nhiều người hợp sức thì dễ dàng (Hòn đá). Con cáo ăn trộm và đàn ong đông đoàn kết (Con cáo và tổ ong). Lúc mới nhóm lửa thì rất khó khăn nhưng lửa đã bén thì “cả giời tóe sáng” (Nhóm lửa)…Bác khuyên thanh niên việc khó như “Đào núi và lấp biển” nhưng “Quyết chí ắt làm nên” (Khuyên thanh niên). Bác khuyên người già cùng người trẻ ai cũng vì sự nghiệp cứu nước: “Già dù sức yếu mang mang nhẹ/ Trẻ cố ra công gánh gánh đầy” (Tặng Cụ Đinh Chương Dương).

    Bài thơ Quân ta toàn thắng ở Điện Biên là sự tương phản quân ta thắng tưng bừng và quân Pháp thua thảm hại: “Quân giặc chống cự tuy rất hăng/ Quân ta anh dũng ít ai bằng/ Nava, Cônhi đều méo mặt/ Quân giặc tan hoang, ta vây chặt/ Giặc kéo từng loạt ra hàng ta/ Quân ta vui hát khải hoàn ca”… Trong kháng chiến chống Mỹ, Bác khen các cô du kích Huế: “Dõng dạc tay cầm khẩu súng trường/ Khôn ngoan dàn trận khắp trong phường” để “Đánh giặc Hoa Kỳ phải nát xương” (Thơ tặng 11 cô gái sông Hương). Lời Mừng xuân 1969 là lời của lịch sử dân tộc kêu gọi cả nước “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” để “Bắc - Nam sum họp, xuân nào vui hơn”. Tiếng cười của Bác Hồ vượt ra ngoài tầm của một tiếng cười trào phúng thông thường để vươn tới tiếng cười trào phúng của CHÂN LÝ LỊCH SỬ, chế giễu sự thất bại của bè lũ đế quốc phi nghĩa: “Uy danh lừng lẫy khắp năm châu/ Đạn cối tuôn cho Mỹ bể đầu/ Thành đồng trống thắng lay Lầu trắng/ Điện Biên, Mỹ chẳng phải chờ lâu!” (Uy danh lừng lẫy khắp năm châu).  

2. Mâu thuẫn trào phúng.
     Tiếng cười trong thơ Bác không chỉ là tiếng cười đả kích châm biếm mỉa mai chế giễu mà còn là tiếng cười hài hước, vui vẻ, tự trào. Một trong những nhân tố cơ bản để tạo nên tiếng cười thì các mâu thuẫn có một vai trò đặc biệt. Có bốn cặp mâu thuẫn gây cười: Hiện tượng và bản chất; Nguyên nhân – Kết quả; Hình thức và nội dung; Mục đích và hành vi, suy nghĩ. Chính điều này đã quy định tiếng cười trong thơ Bác đa sắc thái, nhiều cung bậc, khi đanh thép trang nghiêm lúc sâu sắc chua chát, lại có cả nụ cười vui, dí dỏm trẻ trung.

  2.1. Hiện tượng và bản chất
      Hạ tuần tháng 8-1942 Hồ Chí Minh từ Việt Nam sang Tĩnh Tây (Quảng Tây), qua Thiên Bảo, qua Điền Đông để đi Trùng Khánh nhưng đến Túc Vinh (Thiên Bảo - Quảng Tây) thì Người bị bọn hương cảnh Quốc dân Đảng bắt. Mặc dù Người có giấy giới thiệu của Phân hội Việt Nam thuộc Hiệp hội quốc tế chống xâm lược, trong giấy ghi rõ: “Nay cử Hồ Chí Minh đến yết kiến Chính phủ Trung Quốc, mong được sự giúp đỡ trên lộ trình, không gây khó dễ”. Trong bài Thế lộ nan (II) cũng có câu: Dư nguyên đại biểu Việt Nam dân/ Nghĩ đáo Trung Hoa kiến yếu nhân (Ta vốn là đại biểu của dân Việt Nam/ Định đến Trung Hoa gặp nhân vật trọng yếu). Thế mà Người vẫn bị bắt và bị giải đi giải lại trong hơn một năm trời. Người rất bực bội, đau khổ, những lời thơ “nẫu ruột gan” được giãi bày trên cơ sở mâu thuẫn giữa bản chất “ngay thẳng”, “trong trắng” với hiện tượng “Hán gian”: “Phố xá ùa nhau xem Hán gian/ Hán gian, mình rõ thực vô can;/ Vô can mà vẫn nghi là phạm,/ Nghĩ đến càng thêm nẫu ruột gan” (Trên đường phố). Bài thơ Đường đời hiểm trở là một mâu thuẫn nghịch lý trong xã hội nhưng lại đúng với tình cảnh thật của Bác: “Núi cao gặp hổ mà vô sự,/ Đường phẳng gặp người bị tống lao” (Đường đời hiểm trở).

       Nhìn dưới góc độ thể loại nhật ký chúng ta dễ thấy bài Đến Cục Chính trị chiến khu IV ghi lại một cách trung thực nhất những gì Bác phải trải qua trong thời gian bị bọn phản động bắt: “Quảng Tây giải khắp mười ba huyện/ Mười tám nhà lao đã ở qua”. Hồ Chí Minh bị coi là nghi phạm chính trị nên bị giải từ Quế Lâm đến Liễu Châu là nơi đóng bản doanh của Cục Chính trị chiến khu IV. Ở đây Người tiếp tục bị thẩm tra, không có chứng cứ nhưng bọn phản động vẫn cứ giam giữ Người. Theo dấu chân Người trong Nhật ký chúng ta dễ dàng liệt kê “mười ba huyện”: Thiên Bảo, Tĩnh Tây, Điền Đông, Quả Đức, Long An, Đồng Chính, Nam Ninh, Vũ Minh, Tân Dương, Thiên Giang, Lai Tân, Liễu Châu, Quế Lâm. Do vậy hai câu cuối trong bài vừa là tâm trạng căm phẫn, bực bội vừa là lời tố cáo sự vô lý ngược đời, dốt nát, tàn bạo của chế độ phản động Quốc dân Đảng: “Phạm tội gì đây ta thử hỏi?/ Tội trung với nước với dân à?” (Đến Cục Chính trị chiến khu IV).

       2.2. Nguyên nhân – Kết quả:
      Phải trải qua bao vất vả khổ sở đói rét nhọc nhằn về mặt vật chất kết hợp với tâm trạng lo lắng, băn khoăn trăn trở cho vận mệnh nước nhà nên có lúc Người bị ốm:  “Ngoại cảm” trời Hoa cơn nóng lạnh/ “Nội thương” đất Việt cảnh lầm than/ Ở tù mắc bệnh càng cay đắng/  Đáng khóc mà ta cứ hát tràn (Ốm nặng). Hai câu đầu là nguyên nhân gây ra “ốm nặng”, câu thứ nhất là nguyên nhân khách quan, câu thứ hai là nguyên nhân chủ quan. Câu thứ ba là một hiện thực: ở tù đã là một cay đắng, trong tù mắc bệnh thì càng cay đắng bội phần. Có thể coi ba câu đầu là nguyên nhân để dẫn tới một tình cảnh “đáng khóc”. Nhưng chỉ có người tù vĩ đại Hồ Chí Minh mới tạo nên một mâu thuẫn này: Đáng khóc mà ta cứ hát tràn. Chỉ tiếc là bản dịch không lột tả được âm hưởng phẫn uất, dồn nén dữ dội của ba thanh trắc liền nhau (thống khốc khước) ở bản phiên âm: Bản ưng thống khốc khước cuồng ca. Không phải là một tinh thần lạc quan như có người đã từng nhận định mà là một thái độ phủ nhận hiện thực cay đắng, có tiếng hát nhưng không phải là tiếng hát yêu đời hay hát để cho vui mà là hát để chế ngự hiện thực, vượt lên hiện thực quá phũ phàng. Tiếng hát đẫm nước mắt!

    Nhật ký là một bức tranh đầy mâu thuẫn về hiện thực nhà tù Tưởng Giới Thạch. Nhà tù thường được hiểu là nơi giam giữ, cải tạo những người xấu để họ thành người lương thiện nhưng ở đây lại ngược lại. Nếu việc “Đánh bạc ở ngoài quan bắt tội”, thì “Trong tù đánh bạc được công khai”. Thế cho nên, “Bị tù con bạc ăn năn mãi/ Sao trước không vô quách chốn này” (Đánh bạc). Đây là tiếng cười lưỡng tính, vừa hướng tới kẻ bị tù - tức những “con bạc”: mỉa mai thói máu mê cờ bạc đến mê muội, lú lẫn; vừa hướng tới sự phi lý của nhà tù cũng là sự phi lý của cả xã hội, biến người xấu thành người xấu hơn. Bài Tù cờ bạc là sự vô nhân đạo, phi nhân tính của “quan tù”: “Quan không cấp bữa cho tù bạc/ Để họ mau chừa tội cũ hơn”. Ngược đời, vô nhân đạo ở chỗ bắt tù nhịn ăn để “mau chừa tội”, tức là đẩy họ vào chỗ chết để cho …hết tội. Trong khi đó, “Tù “cứng”ngày ngày no rượu thịt”, còn “Tù nghèo, dãi với lệ cùng tuôn” (Tù cờ bạc). Và đây là một sự phi lý nữa: “Mới đến nhà giam phải nộp tiền/ Lệ thường ít nhất năm mươi “nguyên”/ Nếu anh không có tiền đem nộp,/ Mỗi bước anh đi một bước phiền” (Tiền vào nhà giam). Xét theo nghĩa đen, nhà tù là nơi giam giữ, giáo dục, cải tạo, thế mà vào tù phải nộp tiền. Có nghĩa là nhà tù không còn là nhà tù nữa mà là nơi… nộp tiền!

    Chúng tôi rất chú ý đến hai bài thơ Gia quyến người bị bắt línhCháu bé trong nhà lao Tân Dương. Cả hai bài có cấu trúc nhân quả giống nhau, vì người cha người chồng trốn lính nên nhà chức trách bắt đứa con thơ, người vợ trẻ đi tù. Cứ coi như trốn lính là một tội thì theo lô gich thông thường ai có tội người ấy chịu nhưng ở đây thật phi lý, lại bắt người thân chịu tội. Ý nghĩa thứ nhất là sự mỉa mai đả kích xã hội thật bất công bằng, thiếu công minh; ý nghĩa thứ hai là phê phán thói dã man đối với phụ nữ; ý nghĩa thứ ba là lên án đả kích xã hội phi nhân tính bắt cả đứa trẻ mới đẻ vào tù.

     Tiếng cười trào phúng luôn bật ra từ những mâu thuẫn, những mâu thuẫn càng dồn nén căng thẳng bao nhiêu, tiếng cười càng bật ra mạnh mẽ bấy nhiêu. Nhật ký có những mâu thuẫn lạ, lạ mà rất thực, rất tự nhiên: “Máy bay địch bỗng đến ào ào/ Tất cả nhân dân chạy xuống hào/ Cửa mở cho tù ra lánh nạn/ Sổ lồng ai nấy khoái làm sao!” (Báo động). Những bài như thế này hầu như tác giả không có ý định làm thơ mà đúng chỉ là những ghi chép tả lại cảnh máy bay, cảnh chạy bom, cảnh mở tù. Nhưng lại rất đậm đà một tiếng cười hài hước, hài hước ở mâu thuẫn vì có máy bay địch thì mọi người chạy xuống hào trú ẩn, nhưng nhờ máy bay địch mà tù nhân mới được dịp “sổ lồng”. “Máy bay địch” không phải là “cừu nhân” mà lại là “ân nhân” của những “tù nhân” đang khao khát tự do!

      2.3.  Hình thức và nội dung:
      Cảnh rừng Việt Bắc là cả một phức hợp mâu thuẫn giữa hình thức và nội dung. Mở đầu là một nhận định mang tính khái quát: “Cảnh rừng Việt bắc thật là hay”, những câu còn lại là sự cụ thể hóa cái “hay” này: có âm thanh của “vượn hót chim kêu”, có hương vị của “ngô nếp nướng”, có hình ảnh của “non xanh nước biếc”…Trong quan niệm về sự “hay” của Bác Hồ là những gì thật dân giã gần gũi nhưng cũng rất đặc trưng của không gian Việt Bắc. Bài thơ làm theo thể thất ngôn bát cú vốn thích hợp với những gì sang trọng cổ điển nhưng cũng thi liệu cổ điển ấy Bác dùng lại rất đỗi thân quen. Hình tượng trong thơ Bác luôn có xu hướng phá cách cổ điển để đưa thơ trở về với đời sống thường nhật. Câu “Khách đến thì mời ngô nếp nướng” như là một chứng minh. Đãi khách không phải là sơn hào mỹ vị mà chỉ là món ăn hàng ngày dân giã. Thế là khoảng cách chủ khách không còn. “Săn về thường chén thịt rằng quay”. Ai chén? Chủ ngữ ẩn đi để biểu hiện một mối quan hệ hòa đồng bình đẳng ai cũng như ai. Chữ “chén” xóa nhòa khoảng cách lãnh tụ và dân thường.

       Bài thơ Tức cảnh Pắc Bó cũng là một cấu trúc mâu thuẫn. Cái “sang” của cuộc đời cách mạng chỉ là “suối với hang”, “cháo bẹ với rau măng” cùng “bàn đá chông chênh”. Bài thơ có hình thức thất ngôn tứ tuyệt nhưng nội dung của nó lại từ chối thi liệu cổ điển, theo con đường bình dân hóa những gì là quen thuộc nhất được đưa vào thơ. Không chỉ có thế, cũng là những gì thiết thực nhất, quan trọng nhất, tinh hoa nhất như công việc “dịch sử Đảng”. Cho nên có thể nói thơ Người cổ điển, bình dị những cũng rất mới mẻ, sang trọng. “Dịch sử Đảng” là mở ra đường lối cách mạng, là tài liệu học tập quan trọng của cán bộ là một công việc cực kỳ sang trọng!

       2.4. Mục đích và hành vi, suy nghĩ.
      Cả cuộc đời Bác Hồ là vì mục đích “tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho tổ quốc tôi”. Việc Người làm thơ, dù không cố tình nhưng cũng thể hiện rõ điều này:

Trăng vào cửa sổ đòi thơ
-Việc quân đang bận xin chờ hôm sau
Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu
Ấy tin thắng trận Liên khu báo về
(Tin thắng trận)

Một tâm hồn nghệ sĩ ấy khi gặp cảnh thơ sẽ có thơ và thơ hay nhưng không thể thoát ly hoàn toàn mục đích chính trị  mà cứ đau đáu với mục đích ấy: “Tiếng suối trong như tiếng hát xa/ Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa/ Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ/ Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà” (Cảnh khuya). Kết quả “chưa ngủ” khép mở hai nguyên nhân: “cảnh khuya như vẽ” và “nỗi nước nhà”. Người thao thức vì cảnh nhưng cái chính là vận nước, lúc này (1947) vận nước là mục đích tối thượng, ba thanh trắc cuối bài thơ như nổi lên âm hưởng của sự day dứt trăn trở cật vấn! Hai bài thơ có tên Không đề là nụ cười vui quên đi tuổi tác: “Vì nước chưa nên nghĩ đến nhà/ Năm mươi chín tuổi vẫn chưa già”, “Bảy mươi tám tuổi chưa già lắm”, tất cả vì mục đích: “Chờ cho kháng chiến thành công đã”, “Tiến bước! ta cùng con em ta”.

     Trong cấu trúc mục đích – hành vi, suy nghĩ còn là nụ cười hài hước thức tỉnh: “Hai tay cầm khẩu súng dài/ Nhắm đi nhắm lại, bắn ai thế này?”. Câu đầu là hành vi câu sau là mục đích. Một câu hỏi làm nổi bật một mâu thuẫn của những binh lính người Việt nhưng có thể do bị o ép, dụ dỗ, lừa gạt mà phải cầm súng bắn lại đồng bào mình, anh em bà con mình. Không thể như thế, phải: “Trong tay đã sẵn súng này/ Quyết quay đánh Nhật, đánh Tây mới đành” (Ca binh lính).

   Còn là nụ cười châm biếm, mỉa mai: “Bán nước lại còn khoe cứu nước/ Ô danh mà muốn được thơm danh” (Tặng Thống chế Pêtanh). Cả câu là một phức hợp mâu thuẫn: Bán nước/ cứu nước; ôdanh/ thơm danh; bán nước/ thơm danh; cứu nước/ ô danh, để xoáy vào làm bật ra chân tướng thảm hại của viên Thống chế.

       3 . Ẩn dụ trào phúng.
       3.1. Ẩn dụ trong Nhật ký trong tù.
      Trong tác phẩm ngoài các đại từ nhân xưng , ngã, Bác ít khi nhận mình là người tù mà tự coi mình là một lão phu, một vị tiên, một nhà thơ, một khanh tướng, một con rồng, một cánh chim…theo nghĩa ẩn dụ.

     Lão phu nguyên ái bất ngâm thi (Khai quyển)
     Ngục trung lưu trú tự do nhân (Nhập Tĩnh Tây huyện ngục)
     Tống dư nhập ngục tác gia tân (Thế lộ nan)
     Mộng kiến thừa long thiên thượng khứ (Ngọ)
     Tri phủ lung trung dã hữu tiên (Ngọ hậu)
     Nguyệt tòng song khích khán thi gia (Vọng nguyệt)
     Nghịch phong hữu ý trở phi bằng (Song thập nhật giải vãng Thiên Bảo)
     Chinh nhân dĩ tại chinh đồ thượng
     Hành nhân thi hứng hốt gia nồng (Tảo giải)
     Nam nhi đáo thử diệc hào hùng (Giải trào)…

     Những câu thơ này chứng minh rõ nhất Bác Hồ tuy nằm trong ngục nhưng luôn tạo ra các cuộc vượt ngục về tinh thần. Bác coi vào tù không phải chịu thân tù giam hãm mà là khách quý (Tống dư nhập ngục tác gia tân), là vị tiên trong tù (Tri phủ lung trung dã hữu tiên), thậm chí vị tiên ấy còn cưỡi rồng (Mộng kiến thừa long thiên thượng khứ), là nhà thơ (Nguyệt tòng song khích khán thi gia), không còn là cuộc giải tù mà là chuyến du ngoạn của nhà thơ đi tìm thi hứng (Hành nhân thi hứng hốt gia nồng), là cánh chim bằng (Nghịch phong hữu ý trở phi bằng). Trong truyện ngụ ngôn của Trang Tử có câu Bằng phi cửu vạn lý, nghĩa là cánh chim bằng bay chín vạn dặm. Bác dùng hai chữ phi bằng lấy từ tích trên để nói lên ý chí, hoài bão của mình. Cả bài thơ Giải trào (Pha trò) là một ẩn dụ: “Ăn cơm nhà nước, ở nhà công,/ Lính tráng thay phiên để hộ tòng;/ Non nước dạo chơi tùy sở thích,/ Làm trai như thế cũng hào hùng!”

        Không thấy hình ảnh người tù đâu mà thay vào đó là một người làm công việc nhà nước Ăn cơm nhà nước, ở nhà công, một bậc khanh tướng có Lính tráng thay phiên để hộ tòng, là một người tự do Non nước dạo chơi tùy sở thích. Và đúng như câu kết, đấy là bậc nam nhi có chí hào hùng Làm trai như thế cũng hào hùng. Một tiếng cười tự trào đầy khẩu khí của người anh hùng chí lớn vượt thoát ra khỏi môi trường tù ngục tối tăm. Tiếng cười ấy toát lên từ hiện thực nhưng đối lập hẳn với hiện thực, người tù thì hẳn phải Ăn cơm nhà nước, ở nhà công; hẳn phải có quân lính coi ngục thay phiên nhau áp giải từ địa phận huyện này đến địa phận huyện khác. Nhờ phép ẩn dụ mà người đọc vẫn hiểu có hiện thực ấy nhưng nó bị mờ đi để nổi lên một chân dung tự họa của bậc nam nhi hàng khanh tướng công hầu.

     Tiếng cười ẩn dụ trong Nhật ký trong tù luôn là tiếng cười phủ nhận hiện thực để vươn tới một thế giới khác, thế giới của sự sang trọng, vương giả, tự do, thế giới của nghệ thuật, thế giới của tình yêu thương, tôn trọng tuyệt đối giữa con người với con người: “Mặc gấm trong tù đều khách quý/ Gảy đàn trong ngục thảy tri âm”. Không phải là cảnh ghẻ lở mọc loang lổ trên người tù, không phải là cảnh luôn tay gãi, cũng không phải là cảnh những tù nhân tiều tụy ốm o vì đói ăn khát uống chịu rét chịu cùm mà đó là nơi gặp gỡ của những bậc quý khách tri âm cùng mặc áo gấm thêu hoa cùng nhau gảy đàn vui vẻ. Chúng tôi cho rằng tìm hiểu không gian nghệ thuật trong Nhật ký không nên đi sâu vào lớp nghĩa đen, lớp nghĩa bề mặt miêu tả cảnh không gian tù đầy mà nên đi sâu hơn vào lớp nghĩa bóng, lớp nghĩa ẩn dụ. Ví dụ nên tìm hiểu “mỹ thuật tiểu hàn lâm” trong câu “Hốt thành mỹ thuật tiểu hàn lâm” (Chiều hôm), có nghĩa là một viện hàn lâm nhỏ về mỹ thuật. Người Choang ở huyện Tĩnh Tây là một bộ tộc giàu tâm hồn nghệ sĩ, yêu thích dân ca từ khúc nên câu “Xứ xứ sơn ca dữ nhạc âm” nên hiểu khắp mọi nơi, cả trong tù và ngoài tù đều rộn tiếng ca dân giã và tiếng nhạc. Nhà ngục không còn là nhà ngục nữa mà biến thành một viện hàn lâm nghệ thuật nhỏ. Tù nhân không còn là tù nhân nữa mà trở thành những nghệ sĩ. Từ cái nhìn ẩn dụ sẽ cho phép chúng ta hiểu cái nhìn ngộ nghĩnh lạc quan của chủ thể trữ tình, không phải đấy là một túp lều tranh nghèo nàn đơn sơ bên đường mà đấy chính là “tiệm rượu” (Hàng cháo), không phải là cảnh ban đêm khi ngủ bị cùm chân mà là một sự thưởng thức món “ngũ vị kê”, món gà nấu có năm vị (Đêm ngủ ở Long Tuyền)…

      3.2. Ẩn dụ trong thơ tiếng Việt
      Sức mạnh của so sánh là nhận thức sức mạnh của ẩn dụ là biểu cảm. Không chỉ thơ trữ tình của Bác mới giàu ẩn dụ mà trong thơ trào phúng của Người cũng tác động mạnh vào cảm thụ ở người đọc nhờ khả năng diễn đạt tinh tế của phép nghệ thuật này. Văn chính luận của Bác chinh phục cả trái tim và lý trí độc giả nhờ giá trị biểu cảm của các ẩn dụ.

   Thơ tiếng Việt của Người cũng là cả một thế giới ẩn dụ trào phúng!
   Ngoài những ẩn dụ mang tính tố cáo sự ăn cướp đàn áp thậm tệ dân ta của thực dân Pháp, như dựng chân dung bị vật hóa của quan Toàn quyền Đờcu:

              Về Pháp, không cơm, e chết đói
              Ở đây, hút máu, béo ni – nu (Tặng Toàn quyền Đờcu)

hay diễn tả cảnh dân ta bị hai thực dân đế quốc là Pháp và Nhật thi nhau bóc lột: Dân bị hai tròng vào một cổ (Tặng Cụ Đinh Chương Dương) hoặc tố cáo Giặc Mỹ leo thang ngày càng thua nặng (Thơ chúc mừng năm mới- 1966) bị đánh nát xương (Thơ tặng 11 cô gái sông Hương).

    Chúng tôi rất chú ý tới ẩn dụ trong những bài thơ kêu gọi tuyên truyền của Bác thời kỳ đầu những năm 40 ở thế kỷ trước.
     Trước hết cần xác định đối tượng kêu gọi tuyên truyền của những bài thơ này là đại đa số quần chúng nhân dân, ở thời đó hầu hết chưa biết chữ. Mà mục đích của tuyên truyền là để người ta hiểu, tin, nghe theo, làm theo. Do vậy những ẩn dụ  phải thể hiện hình ảnh cụ thể, chân thực, gần gũi. Đó là câu chuyện về sợi chỉ, về hòn đá, chuyện về con cáo và tổ ong, về nhóm lửa, …Nhưng đặc sắc của ẩn dụ Hồ Chí Minh không phải là ở đó mà ở sự phát hiện, liên tưởng đảm bảo tốt yêu cầu của một ẩn dụ nghệ thuật mới mẻ, không mòn sáo, không nhạt, trái lại luôn được tăng cường bổ sung chất biểu cảm hấp dẫn, mời gọi. Ai cũng biết sợi bông thì “yếu ớt vô cùng”, đến khi xe thành sợi chỉ thì “càng dài lại càng mỏng manh” rồi dệt thành tấm vải thì dĩ nhiên “đố ai bứt xé cho ra”. Đó là quy luật tự nhiên chưa phải là sáng tạo, nhưng đến khi một liên tưởng bất ngờ: Đó là lực lượng, đó là vẻ vang. Không phải ai cũng có phát hiện này, phải là một tầm lãnh tụ kiệt xuất của số đông luôn quan tâm tới sự tập hợp lực lượng mới có thể nhìn thấy cái lớn đoàn kết  cách mạng từ trong cái nhỏ là sợi chỉ. Nếu xét theo tiêu chí ngắn gọn, hàm súc, nói được nhiều nhất trong một lượng ngôn từ ít nhất của thể loại thơ thì bài Ca sợi chỉ sẽ dừng lại ở câu Đó là lực lượng, đó là vẻ vang, nhưng vì đối tượng là nhiều người ít học nên bài thơ phải có bốn câu cuối nói rõ ra, thật thà, hồn hậu. Tương tự chuyện một người không nhắc được nhưng nhiều người sẽ nhắc được hòn đá to là chuyện đương nhiên, nhưng đến khổ thơ: Biết đồng sức/ Biết đồng lòng/ Việc gì khó/ Làm cũng xong thì phải là lời của người có tầm hiểu biết xa rộng, từng trải. Các chữ đồng sức, đồng lòng rất đắt, có nghĩa chung sức chung lòng, cùng sức cùng lòng, cùng quyết tâm, cùng biết dùng sức đúng lúc đúng chỗ. Bài thơ nếu dừng lại ở đây thì quả là khó hiểu với số đông nên có thêm hai khổ cuối nói về việc toàn dân đồng sức đồng lòng đánh giặc Nhật Pháp. Bài thơ Con cáo và tổ ong là một câu chuyện ngụ ngôn có nhân vật, có cốt truyện là tình huống tương phản giữa con cáo già ăn trộm mật và đàn ong quyết bảo vệ tổ. Câu chuyện dí dỏm hài hước ở lối miêu tả cảnh con cáo già khôn ngoan lọc lõi bị đàn ong “kéo nhau xúm lại vây tròn” mà “châm đầu, châm mắt” đau quá phải bỏ chạy…

      Những phát hiện liên tưởng độc đáo của tác giả là từ những sự vật, những chuyện rất bình thường, rất đỗi thân quen, gần gũi tưởng chừng không thể là thi liệu để tạo thành chất thơ nhưng qua cái nhìn hóm hỉnh, ngộ nghĩnh của một nhà thơ trào phúng kết hợp với nhãn quan chiến lược chính trị sắc sảo của nhà cách mạng vĩ đại, thì những sự vật, những câu chuyện bình thường kia lại trở thành những bài học quan trọng nhất, cơ bản nhất, cần thiết nhất, quyết định nhất của một cuộc cách mạng. Ca sợi chỉ, Hòn đá, Con cáo và tổ ong là bài học về đoàn kết, Chơi giăng là bài học về tổ chức, Nhóm lửa là bài học về bước khởi đầu… Không ngẫu nhiên những bài thơ này ra đời gần nhau trong năm mang tính bản lề của cách mạng Việt Nam, năm 1942.

     4. So sánh trào phúng.
     Trong tổng số 235 bài thơ Bác Hồ dùng phép so sánh trào phúng trong 26 bài. Chúng tôi chia thành ba nhóm: dùng để mỉa mai, đả kích, châm biếm phê phán; để tạo ra tiếng cười vui; kêu gọi mọi người đoàn kết. Ngoài những so sánh mang tính khuôn mẫu quen thuộc, như qua việc tả cái cùm để tố cáo chế độ nhà tù hà khắc: “Miệng đói dữ tợn như một hung thần” (Cái cùm), chế giễu kẻ có gan chơi bạc ngoài đời nhưng nhu nhược ở trong tù: “Gan đánh bạc to như trời mà mật thì nhỏ như cái kim” (Bạn tù họ Mạc) vạch trần nỗi đói khổ của tù nhân trong ngục: “Củi đắt như quế, gạo như châu” (Điền Đông)…còn là những so sánh tạo dựng tiếng cười đặc sắc.
 
     Các so sánh mỉa mai đả kích châm biếm đều có xu hướng cụ thể hóa. Ở trong ngục người tù phải làm bạn với  muỗi với rệp: “Rệp bò ngang dọc như xe cóc/ Muỗi lượn hung hăng tựa máy bay” (Đêm thu). Tù nhân bị cấm cố trong lao, chân bị cùm, nên: “Nghỉ lâu, chân tựa bông mềm nhũn/ Đi thử, hôm nay muốn ngã quay” (Được lệnh trên cho đi lại ngoài buồng giam). Và bị giải đi giải lại trong thân phận tù nhân. Một cảnh ngộ oái oăm: Cảnh binh khiêng lợn cùng đi.

                   “Khiêng lợn, lính cùng đi một lối,
                    Ta thì người dắt, lợn người khiêng;
                    Con người coi rẻ hơn con lợn,
                    Chỉ tại người không có chủ quyền
!”

      So sánh dựa trên một sự thật: cảnh binh sợ người tù bỏ trốn nên bắt tù nhân cổ phải mang cùm, chân thì bị xích, và dĩ nhiên là người tù bị dắt, còn con lợn phải khiêng vì nếu dắt đường xa sẽ rất khó đi, lợn lại gầy. Đúng là Con người coi rẻ hơn con lợn. Một sự thật phi nhân tính!

     Tù nhân bị giải đi bằng thuyền, không bị dắt đi nhưng chân lại bị treo lên giàn thuyền như tội hình treo cổ. Còn trên bộ thì người tù bị giải đi cả ngày, cả tối, đi trong giá rét với gông cùm, xiềng xích:  “Gió sắc tựa gươm mài đá núi,/ Rét như dùi nhọn chích cành cây” (Hoàng hôn). Nếu ai chưa cảm nhận được cái gió cái lạnh xứ trời Hoa thì qua phép so sánh trên sẽ hình dung được phần nào. Gió và rét như vậy nhưng tâm hồn người tù vẫn ấm áp tình người, tình đời, không hề buồn nản mà trái lại vẫn tin vui với cuộc sống: Chùa xa chuông giục người nhanh bước/ Trẻ dẫn trâu về tiếng sáo bay. Đúng là một bản lĩnh phi thường!

     Ở những bài thơ thể hiện nụ cười vui, dí dỏm, hóm hỉnh của Bác những hình tượng so sánh lại có xu hướng thân mật hóa, ấm áp hóa, sang trọng hóa một hoàn cảnh tù đầy cô đơn lạnh lẽo, một hiện thực thê thảm tối tăm: “Nhà lao mà giống tiểu gia đình,/ Gạo, củi, muối, dầu tự sắm sanh;/ Trước mỗi phòng giam bày một bếp,/ Suốt ngày lụi hụi với cơm, canh” (Nhà lao Quả Đức). So sánh này lại làm biến mất những không gian tù đày với gông cùm xiềng xích để chỉ còn một không khí gia đình bận rộn mà vui, thân mật.   

      “Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại”, trong tù của chế độ phản động lại càng cay đắng bội phần, thảng hoặc Bác gặp được người tốt, trong thơ Người lại ấm áp tình hữu ái: “Họ Ngũ trưởng khoa với họ Hoàng/ Thấy ta cùng cực động lòng thương/ Ân cần thăm hỏi và cứu giúp/ Như nắng bừng lên giữa giá sương” (Khoa trưởng họ Ngũ, khoa viên họ Hoàng). Được đọc sách quý nhờ có người tặng, người tù cảm thấy như không còn trong tù mà được sống ở một chân trời khác, chân trời của niềm tin, trí tuệ, lý tưởng: “Sách ngài chủ nhiệm mới đưa sang/ Đọc đoạn, tinh thần chợt mở mang/ Còn vẳng bên tai lời lãnh tụ/ Chân trời một tiếng sấm rền vang” (Chủ nhiệm họ Hầu tặng một bộ sách). Không chấp nhận tư cách tù nhân nô lệ, người tù luôn có xu hướng vươn lên tư cách khanh tướng công hầu đầy quyền uy: “Hôm nay xiềng sắt thay dây trói,/ Mỗi bước leng keng tiếng ngọc rung;/ Tuy bị tình nghi là gián điệp,/ Mà như khanh tướng vẻ ung dung” (Đi Nam Ninh)

      Không chấp nhận một hình hài ghẻ lở phi nhân loại sinh hoạt, người tù luôn có xu hướng sang trọng hóa bản thân mình, sang trọng hóa môi trường tù ngục để vươn lên hàng quý khách, tiên khách: “Đầy mình đỏ tím như hoa gấm,/ Sột soạt luôn tay tựa gảy đàn;/ Mặc gấm, bạn tù đều khách quý,/ Gảy đàn, trong ngục thảy tri âm” (Ghẻ lở). Sau này khi tuổi đã cao lại ở cương vị Chủ tịch Nước, thơ Bác Hồ lại được trẻ trung hóa: “Sáu mươi tuổi hãy còn xuân chán/ So với ông Bành vẫn thiếu niên/ Ăn khỏe, ngủ ngon, làm việc khỏe/ Trần mà như thế kém gì tiên!”

    Có hai so sánh, tác giả so sánh chính mình khi sáu mươi tuổi với ông Bành Tổ trong truyền thuyết dân gian sống tám trăm năm để khẳng định mình vẫn đang còn đầy sức sống (thiếu niên); so sánh cõi trần với cõi tiên để triết lý cõi trần này cũng chính là cõi tiên nếu con người ta sống hết mình, làm việc hết mình: “Trần mà như thế kém gì tiên!” .

    Ở mảng thơ kêu gọi, động viên toàn dân đoàn kết đấu tranh giành độc lập tự do, nghệ thuật so sánh trong thơ Bác tuân theo nguyên tắc cụ thể hóa để hướng mọi người về phía tương lai, niềm tin, ánh sáng và hạnh phúc. Bác kể chuyện Con cáo và tổ ong rồi kết luận: “Bây giờ ta thử so bì,/ Ong còn đoàn kết, huống chi là người!/ Nhật, Tây áp bức giống nòi,/ Ta nên đoàn kết để đòi tự do”. Bác kể chuyện “nhóm lửa” lúc đầu khó khăn rồi so sánh: “Việc cách mạng cũng là như thế/ Bước ban đầu là bước gian nan”, nhưng khi lửa cách mạng đã cháy thì: “Sẽ ồ ạt lan tràn khắp xứ/ Sẽ vùn vụt như tòa núi lửa,/ Sẽ rầm rầm như ngọn thủy trào,/ Sẽ kéo theo tất cả đồng bào…” (Nhóm lửa). Các hình tượng được so sánh tòa núi lửa, ngọn thủy trào diễn tả thật chính xác về cường độ, cao độ sức mạnh, sức nóng, sức lan tỏa của cách mạng.

    Nếu nhận xét về nụ cười lạc quan trong thơ Bác thì căn cứ vào nghệ thuật so sánh là có sức chinh phục hơn cả:
           Tin mừng thắng trận nở như hoa!
(Mừng xuân 1967)
            Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua,
            Thắng trận tin vui khắp nước nhà
(Mừng xuân 1968).
            Mặt trời mới mọc đỏ như lửa
            Muôn ánh hồng soi khắp thế gian
(Vọng thiên san – Trông thiên san)
            Không bệnh là tiên sướng tuyệt trần (Vô đề - Không đề).
            Má như táo chín, miệng như hoa (Kỳ nhị - Bài thứ hai)
            Quế Lâm phong cảnh tuyệt vời
           ( Như) thơ đan trong họa, họa cài trong thơ
(Quế Lâm phong cảnh – Phong cảnh Quế Lâm)…
 
     Chúng tôi hI vọng tiếp cận thơ Hồ Chí Minh từ góc nhìn tu từ học trào phúng sẽ đưa lại những kết quả mới, những hiệu ứng thẩm mỹ tinh tế, sâu sắc từ thế giới nghệ thuật thơ của Người, một hiện tượng thơ “nói mãi không cùng”.

TĐH
 

 
 
 
 
 
 

 
VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Bóng thầm mà rực rỡ trên mỗi trang văn

Bóng thầm mà rực rỡ trên mỗi trang văn

Sau những giờ lên lớp về lí thuyết, các ông chia nhau mỗi người kèm mấy học viên sáng tác... (CHÂU LA VIỆT) 

Anh Tựu trong "Vượt lũ"

Anh Tựu trong "Vượt lũ"

Anh Tựu của chúng tôi, ngoài đời là Thầy thuốc Ưu tú, tiến sĩ, dược sĩ chuyên khoa II Trần Tựu... (KIỀU BÍCH HẬU)

Giọt nước mắt mang hình vết thương

Giọt nước mắt mang hình vết thương

Cứ chiều chiều bà xay bột, tối tráng bánh rồi phơi, phơi đến khô thì mang ra chợ, vừa quạt than nướng vừa bán... (VŨ THANH LỊCH)

Tiếng chim bắt cô trói cột

Tiếng chim bắt cô trói cột

Chẳng biết bắt đầu từ đâu, nhưng trong kí ức của một đứa trẻ đôi lần lên núi kiếm củi, bứt lá rừng về lót chuồng cho lợn cho bò, thi thoảng gặp bụi sim chín ửng… thì núi sau lưng làng tôi được bắt đầu từ mé sông... (HỒ MINH TÂM)