Đặc sắc Yến Lan

Thứ Năm, 28/04/2016 00:48
. VŨ QUẦN PHƯƠNG

logo 1 Yến Lan làm thơ từ chặng đầu của phong trào Thơ mới, năm 1937. Khi ấy ở Bình Định có nhóm bạn trẻ làm thơ khá nổi. Họ kết thân với nhau, gọi là Bàn Thành tứ hữu, cái tên toàn chữ Hán, nghĩ ra danh xưng này chắc là Quách Tấn, người chuyên làm thơ Đường luật. Quách Tấn cao tuổi nhất trong nhóm, sinh năm 1910. Hàn Mặc Tử sinh năm 1912, Yến Lan năm 1916, ít tuổi nhất là Chế Lan Viên năm 1920. Đất Bình Định không lớn, nhưng ảnh hưởng của nhóm thơ này, đặc biệt là Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên, vào nền thơ Việt hiện đại lại không nhỏ.

YenlanVới Yến Lan, đóng góp vào giai đoạn thơ trước 1945, thường được nhắc đến ở đơn vị bài, bài Bến My Lăng. Bài thơ được Hoài Thanh tuyển in vào tập Thi nhân Việt Nam xuất bản năm 1942 và có mặt trong tập thơ đầu của ông, tập Những ngọn đèn xuất bản năm 1957. My Lăng là một bến đò trong tưởng tượng. Ông lái đò, hẳn là đò ngang, lại có phong thái một ông đạo sĩ, lúc câu cá, lúc đọc sách, uống rượu, ngắm trăng, thổi tiêu và say ngủ giữa trời trăng trong tiếng gọi đò của khách quá giang. Người khách gọi đò trong cái đêm trăng mông lung ấy, cũng đặc biệt: một chàng kị mã, nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu li. Tiếng gọi đò hối hả, khẩn thiết làm run rẩy cả ngành trăng cũng chỉ vì chàng sợ trăng vàng rơi khuất lối. Tình huống ấy, nhân vật ấy đúng là một cơn mơ trong cổ tích. Nó lãng mạn, nó huyền ảo và giàu sức gợi thẩm mĩ vào cõi mộng của người đọc. Không nên tìm ý nghĩa hiện thực hay tư tưởng tác động xã hội của bài thơ này. Không tìm, vì nó không có. Không có vì nó không thực, nhưng nó đủ lí do để tồn tại. Đó là thơ, là chức năng mộng ảo vốn có của đời thực con người.

Nhiều nhà phê bình nhận xét: thơ Yến Lan không có câu non lép. Tôi nghĩ đó là một nhận xét đúng. Đúng từ những bài viết ở chặng đầu, trước Cách mạng tháng Tám, đến suốt cả đời thơ ông. Bài khi hay, khi xoàng nhưng câu bao giờ cũng kĩ càng, cẩn trọng. Yến Lan đầu tư công sức vào đơn vị câu. Ông chọn chữ, đổi sắc thái các chất liệu thơ bằng các động từ, ông tác động chất liệu này lên chất liệu kia một cách khác biệt, tạo nên bối cảnh thơ kì lạ từ các chi tiết quen. Xin lấy một ví dụ ngẫu nhiên, từ bài Bình Định 1935:
Cây lặng lẽ gượng làm bầy
hải đảo
Thuyền bồ câu nghiêng
buồm trắng trôi ven
Tăm chiêu mộ nổi trên dòng
nước Đạo
Rượu ân tình - Bình Định - xứ
lên men.


Thơ tả gì? Tả cây, tả thuyền, tả dòng sông. Ờ mà dòng sông hay dòng rượu? Bình Định có rượu Bầu Đá nổi tiếng. Sông mà sớm chiều nổi tăm (tăm chiêu mộ) thì là sông rượu rồi. Mà nếu chưa phải rượu thì ở câu thứ tư nó cũng thành rượu vì cả Bình Định này là xứ lên men. Cây như đảo, thuyền như chim, sông như rượu. Nhưng ông không dùng chữ như dễ dãi như tôi vừa dùng. Ông miêu tả bằng cách cho cây gượng làm bầy hải đảo. Chữ bầy cũng là một dấu vết lao động. Ghép thuyền với bồ câu và cho nghiêng cánh. Đấy là phép đan cài tung trên hứng dưới khá tỉ mỉ của Yến Lan. Ông làm mới câu vì ông vốn ham chi tiết. Mỗi câu miêu tả một chi tiết, ngang cấp về ý tưởng, ngang cấp về tình cảm. Bài thơ thường bị kéo dài và rất dễ bằng phẳng. Bằng phẳng vì nội lực các câu thơ vốn bằng nhau. Để tránh đơn điệu, ông kì hóa chất liệu, sáng tạo chữ, đôi khi cao hơn, sáng tạo cảm giác, tạo nên câu thơ lạ mang cái hay đột xuất giữa mạch thơ đang thường thường bậc trung của toàn bài, trong bài Bình Định 1935 nói trên, bỗng vụt lên:
Trời Bình Định có thương em
lẻ chiếc
Em nằm thương xanh biếc của
trời buồn


Nhưng sao phải ham chi tiết, ham kể, ham tả. Trước hết là do tạng cảm xúc của từng nhà thơ. Riêng với Yến Lan, tạng mê chi tiết ấy ngay trong thơ trước Cách mạng tháng Tám đã có. Sau này ở chặng thơ viết từ các chuyến đi thực tế sau cuộc đấu tranh tư tưởng Nhân văn - Giai phẩm, lại càng đậm, tính ghi chép đời sống khá rõ, chắc ông cũng thấy thế nên có bài ông ghi là bút kí thơ. Bài thơ khi ấy, như một báo cáo thu hoạch thực tế. Kể nhiều để thấy thu hoạch nhiều, để thấy cuộc sống mới đã tràn vào tâm hồn nhà thơ đầy chật và phong phú như thế nào. Đây cũng là một kiểu đánh giá thơ hồi ấy. Yến Lan, thương điểu kinh cung, ông hạn chế bộc lộ riêng tư để chuyển tải đời sống mới:
Những hồi kẻng vang lừng thôn
                                         hợp tác
Những mái nhà ngói đỏ cả lùm tre
(...)Bè gỗ thuyền câu kín giàn
                                       mặt nước
(...)Chở nụ cười quê lên giàn giáo
                                     công trường

 Là một nhà thơ tài năng, ông biết sở đoản của lối thơ kể việc nên dựa vào sở trường của mình, ông nâng cấp nó. Ông đầu tư công sức vào câu để lạ hóa, để kì hóa nó. Đó là một sáng kiến, một ưu điểm nữa, khi nền thơ chúng ta lúc đó đang khá dễ dãi về câu (Lục cục lào cào/ Anh cuốc em cuốc/ Đá lở đất nhào/ Nào anh bên trai/ Nào em bên nữ/ Ta thi nhau thử/ Ai tài hơn ai). Nhưng sa vào câu mà quên mất bài thì lại là nhược điểm. Yến Lan đây đó cũng vấp nhược điểm ấy. Tôi coi đấy như sự trả giá để có những thành tựu mà ông đạt được với Mùa xuân lên cao, Theo gió xuân lên biên giới, Bài ca hợp tác thôn tôi... Ở những bài thơ này, câu thơ không chỉ tinh xảo trong miêu tả thực tế mà được ảo hóa ngay trong khâu thu nhận, nghĩa là cảm xúc ông đã nhập chúng vào thế giới thẩm mĩ mơ mộng của tâm hồn. Chi tiết là hiện thực (chỗ xuất phát) nhưng tác động vào bạn đọc (chỗ đến) lại do yếu tố phi thực. Trong bài Mùa xuân lên cao, đoạn đầu ông tạo ấn tượng, rất thực mà cũng rất gợi: Mới nghe đã sợ/ Những tên chẳng hiền/ Trái Hút, Mậu A, Ngòi Hóp/ Tên như tên của hang beo hốc cọp/ Bóng ma theo gót thày then/ Sâu quảng sùi lên/ Biệt kích còn moi sào huyệt/ Lưỡi lê chọc tiết/ Chặn đường thổ phỉ cướp xe. 

Đoạn giữa, một cơn say trùng điệp: Ta qua những làng/ Máng rủ suối sang/ Chàm ngâm tím vại/ Trâu kéo gỗ về sông Yên Bái/ Bến Âu Lâu thóc trẩy sáng đò/ Ta đứng trên những nương ngô/ Phấn bay giếng nước/ Giàn su quả dày/ Vườn cam quả sây/ Cam hay chim nở/ Cam hay em nhỏ/ Trên cành múa lay/ Cam hay má đỏ/ Tay sờ mát tay.
Đoạn cuối, thực ảo biến hóa tài tình, dào dạt: Tay ai dắt ngựa ra phiên tết/ Năm cũ người Mèo mai trẩy hết/ Năm mới về theo những điệu khèn/ (...) Ta mang miền ngược về thành phố/ Miền ngược nằm trong những búp đào.

Bài thơ viết tháng Giêng năm 1958, ngay sau cuộc đấu tranh tư tưởng mà đối với Yến Lan không phải không nặng nề. Có được mạch cảm xúc thênh thênh thơ mộng ấy là một bản lĩnh thi sĩ, một biểu hiện tài năng đáng khâm phục. Bài thơ hay trong ý, trong tình, trong nhịp điệu. Câu thơ dài ngắn xuống lên như tiếng reo, tiếng hát hòa quyện ngoại cảnh với hồn người, tung tẩy xa rộng, thênh thang, đầy chủ động.

Bài ca Hợp tác thôn tôi là một nhập cuộc tiêu biểu của nhà thơ, rộng hơn của người trí thức, với bà con cày cuốc chân lấm tay bùn. Chúng ta từng khâm phục cụ Tam nguyên Nguyễn Khuyến đã bấm ngón trên bàn tay tiến sĩ tính liệu với bà con lam lũ thôn Bùi:
Quanh năm làm ruộng vẫn
                                chân thua
Chiêm mất đằng chiêm mùa
                                  mất mùa
Phần thuế quan thu, phần trả nợ
Nửa công đứa ở, nửa thuê bò.


Nay thấy Yến Lan Lấn nước chân chiêm, ngã mềm chân hóa. Ông sử dụng lời ăn tiếng nói nông dân, ông nhìn làng xóm ruộng đồng bằng cái nhìn của người cùng hai sương một nắng:
Tre khép chuồng bèo - trâu nhai
                                 bóng mát
Ta đi nhổ cói dệt chiếu ta ngồi
Rót ấm chè tươi mời đón
                                thêm người
Ta bàn chuyện đan nia, phất quạt.


Bút pháp mạch thơ này, tôi có cảm giác nó không dính dáng với Bến My Lăng mộng ảo mà có lẽ nó là bước phát triển của khuynh hướng hiện thực từ Lại về tỉnh nhỏ. Lại về tỉnh nhỏ viết năm 1956, nó là một nhịp lạ tài hoa giữa giàn thơ ca khi ấy. Lạ, trong cách cảm nhận thực tại: cảm vào lõi của hiện thực, nắm bắt được cả phần hồn hư ảo của hiện thực. Lạ, trong thể hiện: một ngôn ngữ sáng rõ, rành mạch, mà lại giàu sức gợi, dẫn tưởng tượng người đọc đi rất xa. Âm điệu cũng tạo nên nội dung, cái cuộc sống cũ kĩ, ngưng đọng, chỏng chơ, rơi rụng của tỉnh lẻ thời Pháp thuộc hiện rõ chỉ trong tám chữ rơi trên bốn bậc thơ này:
Tỉnh nhỏ
         Cô em
                 Nằm xem
                                kiếm hiệp


Cuộc sống mới sau ngày giải phóng miền Bắc, ở đoạn sau bài thơ, được tác giả đặc tả với khá nhiều chi tiết, tuy tỉ trọng ấn tượng của cái mới chưa đậm đặc bằng khi tả cuộc sống cũ. Nhưng trong toàn thể: cảm xúc bài thơ tươi mới và câu thơ kết bài trí tuệ như một biểu tượng:
Mặt trời không muốn lặn
Mặt trời len vào mắt con người


Sau ngày thống nhất đất nước, Yến Lan về sống tại quê nhà Bình Định. Thơ ông có một bước chuyển. Một bước chuyển có tính tổng kết, ngẫm nghĩ lại đời người. Ông không làm thơ dài. Không kể và tả chuyện ngoài đời nữa mà nói lòng mình. Thơ như viết cho mình. Nói thật, nói hết những nông nỗi dâu bể đời mình đã trải. Ông tìm về cách nói cổ điển, hàm súc, đôi khi ước lệ trong thi pháp thơ Đường tứ tuyệt. Cảm xúc phóng khoáng, ung dung, thoáng chút ngậm ngùi năm tháng và nỗi cô đơn của tuổi già:
Tàu ngang quê cũ
Khói quyện đầu ô, nửa xóm nhòa
Tàu dừng đổ khách, sắp rời ga
Đồng hương kẻ xuống, người
                                    ra đón
Mình suốt đời đi chửa tới nhà

 
Sinh nhật 1989
Năm nay sinh nhật chẳng ra thơ
Xót bạn, mong con, ốm dật dờ
Đón khách những toan
                               ra mở cổng
Giật mình con nhện đã giăng tơ
 
Chèo
Vò rối tơ rồi, gỡ rối tơ
Gỡ không ra mối lại đem vò
Nàng Vân giả dại, nàng Vân dại
Vân dại nên đời cũng ngẩn ngơ


Trong thời đất nước cắt chia, nhà thơ Yến Lan xa Bình Định, sống ở Hà Nội, nhiều năm là cán bộ biên tập thơ của Nhà xuất bản Văn học, khi ấy là nhà xuất bản chủ lực trong việc giới thiệu thơ. Lứa chúng tôi đều được ông biên tập cho những tập thơ đầu. Ông sửa chữa góp ý tận tình, tỉ mỉ. Có người nghĩ ông kĩ tính. Tôi nhớ tập thơ đầu tiên của Phạm Tiến Duật được ông biên tập, Duật có nói trước với ông, nếu cần sửa đổi gì ông cứ bàn với tôi. Duật vào chiến trường, ông đưa tôi xem cách sửa của ông với bài Công việc hôm nay. Ông thấy câu thơ Duật ở bài này lòng thòng văn xuôi quá(1), ông thu gọn lại một số câu làm mẫu và bảo tôi sửa tiếp. Tôi nghe, về hì hụi làm. Được nửa chừng thấy bài thơ mang dáng dấp khác. Bớt lòng thòng nhưng hình như mất đi cái vẻ lôi thôi rất văn xuôi của ngày thường đời sống. Tôi thưa lại với ông. Ông bảo để xem. Hôm sau ông đồng ý để nguyên như cũ. Và không chỉ với bài này, mà với cả tập, giúp cho chất thơ mang nguyên cát bụi chiến trường do Duật khởi xướng được nhanh chóng đến với mọi người. Ông ít nói, ngay cả khi chúng tôi hỏi về kỉ niệm hồi Thơ mới, ông trả lời rất vắn tắt như muốn khép lại những chuyện đã qua. Hôm nay, ngày ông tròn trăm tuổi, chúng tôi lại muốn biết thêm để nghĩ thêm về những gì ông đã trải, đã viết và chưa viết hết. Chúng tôi nhớ ông. Chúng tôi biết ơn ông. 

 
V.Q.P
-------
(1) Cục tác chiến báo sang tin cuối cùng
Về số máy bay rơi trong ngày và
                                       tàu chiến cháy
Nha khí tượng báo tin cơn bão tan
Bộ Nông nghiệp báo tình hình vụ cấy
Trong những tờ trình Thủ tướng
                                     kí trong đêm
Còn có việc hoàn thành bộ thông sử
đầu tiên
VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Bóng thầm mà rực rỡ trên mỗi trang văn

Bóng thầm mà rực rỡ trên mỗi trang văn

Sau những giờ lên lớp về lí thuyết, các ông chia nhau mỗi người kèm mấy học viên sáng tác... (CHÂU LA VIỆT) 

Anh Tựu trong "Vượt lũ"

Anh Tựu trong "Vượt lũ"

Anh Tựu của chúng tôi, ngoài đời là Thầy thuốc Ưu tú, tiến sĩ, dược sĩ chuyên khoa II Trần Tựu... (KIỀU BÍCH HẬU)

Giọt nước mắt mang hình vết thương

Giọt nước mắt mang hình vết thương

Cứ chiều chiều bà xay bột, tối tráng bánh rồi phơi, phơi đến khô thì mang ra chợ, vừa quạt than nướng vừa bán... (VŨ THANH LỊCH)

Tiếng chim bắt cô trói cột

Tiếng chim bắt cô trói cột

Chẳng biết bắt đầu từ đâu, nhưng trong kí ức của một đứa trẻ đôi lần lên núi kiếm củi, bứt lá rừng về lót chuồng cho lợn cho bò, thi thoảng gặp bụi sim chín ửng… thì núi sau lưng làng tôi được bắt đầu từ mé sông... (HỒ MINH TÂM)