Ước nguyện 10 năm và câu chuyện nếu chỉ có 10 năm để sống

Thứ Hai, 11/09/2023 15:53

Là bộ phim thu về hơn 3 tỉ yên tại đảo quốc Phù Tang, Ước nguyện 10 năm chứa đựng thông điệp về tình yêu sống qua những sự sống hữu hạn, qua thứ ngôn ngữ kể chuyện đẹp tới nao lòng và hết sức đặc trưng của nền điện ảnh Nhật Bản.

Mắc căn bệnh nan y hiếm gặp vào năm 20 tuổi, cô gái Takabayashi Matsuri được dự đoán về thời hạn chỉ còn 10 năm để sống. Trở về nhà sau 2 năm ở trong bệnh viện để chữa trị và theo dõi, Matsuri bắt đầu hòa nhập vào cuộc sống thường nhật ít ỏi còn lại của mình. Cô đi gặp mặt bạn bè, họp lớp, kiếm việc… nhưng tuyệt nhiên, Matsuri luôn né tránh, trốn chạy tình yêu. Cho đến khi cô gặp lại cậu bạn cũ Kazuto, một chàng trai vốn đã mất hết động lực sống.

Tình yêu sống hiện hình qua sự hữu hạn, gửi trao

Trước tiên, cần phải khẳng định rằng, câu chuyện một người con gái mắc bệnh nan y và từ việc tái hiện số phận lẫn quá trình cô gái ấy chống lại bi kịch mà gửi gắm, truyền tảỉ thông điệp về sự trân trọng sinh mạng, niềm yêu sống không phải là đề tài mới trong thế giới điện ảnh nói chung, đặc biệt là ở xứ Phù Tang nói riêng. Tuy nhiên, trên nền đề tài đã trở nên quen thuộc ấy, Ước nguyện 10 năm vẫn chứa đựng những khía cạnh được khai thác qua những tình tiết, hình ảnh biểu tượng đầy tinh tế đủ để câu chuyện gần gũi đó, trở nên cảm động đến nỗi, khiến khán giả đồng cảm mà rơi nước mắt khi nao chẳng rõ.

Một cảnh trong phim Ước nguyện 10 năm.

Rằng cuộc sống con người vốn hữu hạn, và sự hữu hạn lại càng trở nên ngắn ngủi trước bao biến cố cuộc đời. Thời gian chảy trôi tựa cái chớp mắt mà sinh mệnh người ta có thể vụt tắt bất cứ lúc nào. Nhất là khi, người ta phải đối diện trước những điều vốn bản thân con người chưa thể tìm đến lời giải đáp, như căn bệnh nan y hiếm gặp chưa có thuốc đặc trị cô gái Matsuri mắc phải. 10 năm sự sống, bỗng chốc tựa một dạng biểu tượng, cho thứ sinh mạng mong manh, yếu đuối và hữu hạn đấy.

Nhưng dẫu là hữu hạn hay mong manh, dù là bi thương hay nghiệt ngã, người ta vẫn đã, đang sống và tiếp tục gửi trao sự sống vào bao yêu thương với những ai sẽ còn ở lại. Như cách, mỗi cá nhân bình dị và mang gương mặt đời rất mực xuyên suốt bộ phim Ước nguyện 10 năm, đã luôn làm. Chiếc máy quay phim người chị cùng phòng bệnh đã trao tay cho Matsuri trước khi tạ thế. Lời cay đắng Matsuri nói với Kazuto khi anh trở về từ cửa tử sau lần tự tử không thành. Cách cả gia đình Matsuri chưa từng từ bỏ hi vọng giúp cô kéo dài sự sống. Cuốn tiểu thuyết Matsuri viết lên. Sinh linh bé nhỏ thành hình trong cơ thể chị gái cô. Còn cả chiếc máy quay phim Kazuto giơ lên trong cảnh phim cuối cùng… Tất cả, đều là hiện hình cho khát khao, hi vọng, ước mơ,… người ta gieo xuống mà chứng minh rằng, bản thân đã từng tồn tại trên mảnh đất cuộc đời còn nhiều bất công và đắng đót này.

Nếu như, 10 năm là biểu tượng cho tính hữu hạn của sự sống thì chiếc máy quay truyền tay hay cuốn sách được xuất bản, hoặc bào thai dần thành hình… lại là biểu tượng cho dạng sinh mệnh vĩnh hẳng người ta hướng đến kể cả khi sự sống không còn nữa. Bởi những thước phim cũ có thể xóa đi hay bị ghi đè thì sự sống mới, vẫn hiện hình qua màn hình máy quay, trang sách còn với thời gian và sinh mệnh này biến mất, sẽ có sinh mệnh khác chào đời… Nên chăng, không phải khi nào, người ta cũng có thể mãi duy trì một tình yêu, khát khao, nghị lực sống nhiệt thành. Nhưng chẳng phải, người ta bất lực, buông bỏ mà chấp nhận, cũng là vì người ta đã khao khát rất nhiều hay sao?

Tính chất gửi trao cùng yếu tố vòng lặp theo hình thức phim với kết cấu đầu cuối tương ứng: mở đầu là chiếc máy quay, những khung hình tán hoa anh đào trải dài bất tận, kết thúc cũng là chiếc máy quay trong cơn mưa hoa anh đào tiết thu; lần nữa, còn như biểu tượng cho tính “thiền” trên khía cạnh sự sống tái sinh vậy. Phải chăng, vì vậy, Ước nguyện 10 năm luôn ân ẩn cái chết hiện hữu, thậm chí kết phim cũng mang tính mở về sự sống con người thì bộ phim này, vẫn rất dỗi dịu dàng, an yên?

Đặc trưng ngôn ngữ điện ảnh Nhật Bản qua thước phim Ước nguyện 10 năm

Nếu như việc khai thác những phạm trù khác nhau của đề tài cái chết trong bộ phim Ước nguyện 10 năm là một khía cạnh khá đặc trưng thuộc về không chỉ riêng điện ảnh mà còn của chung văn chương nghệ thuật; thì cách đạo diễn Michihito Fujii tạo dựng thước phim này qua các thành tố từ tone màu, bối cảnh, ánh sáng, âm thanh, quay phim, dựng phim… lại mang đậm nét đặc trưng riêng có của nền điện ảnh xứ Phù Tang. Có lẽ, đây cũng là yếu tố, làm cho Ước nguyện 10 năm chiếm được cảm tình rất lớn từ khán giả đảo quốc mặt trời mọc. Bất kể, nội dung câu chuyện đã không còn quá mới mẻ với nền nghệ thuật luôn chở nặng cái tôi vụn vỡ cùng cái chết lẩn khuất như Nhật Bản.

Thật vậy, quy tụ được dàn diễn viên từ những diễn viên trẻ nổi danh đang rất được khán giả yêu mến như Komatsu Nana, Sakaguchi Kentaro, Yamada Yuki tới các diễn viên gạo cội như cặp đôi thủ vai cha mẹ Matsuri - Matsushige Yutaka và Hara Hideko, Ước nguyện 10 năm lấy bối cảnh hiện thực, trong một gia đình khá cơ bản ở xã hội Nhật Bản. Nhưng với độ giãn thời gian sự kiện theo dòng chảy 10 năm sinh mệnh còn lại của Matsuri, đã kéo theo đó cả những đổi thay xã hội lẫn con người. 10 năm biểu tượng cho sự sống con người mong manh song thời gian xã hội, một thập kỉ đủ để bao mùa xuân trôi qua và xã hội thay áo, chuyển mình.

Vậy nên, trong cách dựng phim của tổng thể bộ phim, bên cạnh lối dựng tuyến tính theo đúng dòng chảy 10 năm ấy, có những bước nhảy về mặt thời gian giúp đẩy nhanh nhịp phim; ngoài ra, còn là hàng loạt cảnh, phân đoạn được dựng song song như biểu hiện, khao khát của con người, luôn vấp phải hiện thực tàn nhẫn. Rằng một Matsuri vẫn cố để vui cười, hoạt bát, sinh hoạt bình thường trước những người xung quanh; khi một mình, lại lặng lẽ bên số thuốc ngày một tăng lên. Rằng một Kazuto, qua lời kể người bạn cũ ngay trong cuộc họp lớp, ngỡ như một cá nhân, vốn đã xuất phát ở vạch đích; song khi một mình, lại lặng thinh trong một căn phòng ngập ngụa rác. Rằng, giữa con đường chìm trong nắng, gió và cánh hoa anh đào rơi, sinh mệnh Matsuri còn bỏ ngỏ, qua chiếc máy quay Kazuto thu về là bóng hình mờ nhòe không rõ, một cô gái vui cười bên người đàn ông xa lạ…

Quả tình, với cách dựng phim đa dạng tạo tính montage vừa chặt chẽ, vừa vừa chứa đựng những khoảng trắng mở để khán giả suy ngẫm; cách quay phim với sự thay đổi linh hoạt các góc máy cùng lối dụng sáng đã tạo nên những cảnh, phân cảnh, phân đoạn, trường đoạn đồng hiện của hàng loạt hình ảnh vừa ẩn dụ cho riêng từng nhân vật, vừa ẩn dụ cho chính đời sống nước Nhật buổi hiện đại. Từ góc máy chếch nghiêng, đặc tả Kazuto u ám, máy quay dần lùi xa thu vào toàn cảnh căn phòng tăm tối ngập ngụa túi rác mà một điển hình cho lớp thanh niên hikikomori, nhốt mình trong phòng, kém giao tiếp, mất cả động lực sống hiện hình rõ nét. Từ trung cảnh, góc máy chếch về một phía tả cảnh Matsuri chuẩn bị từng phần thuốc, góc máy dần chếch lên phía đỉnh đầu cô thâu lại toàn cảnh căn phòng cùng bóng lưng Matsuri cô độc ở chính diện với bàn thuốc ngổn ngang như cảnh báo, số thuốc tăng lên thì mạng sống Matsuri càng bị rút ngắn.

Và đấy, còn cả hình ảnh hoa anh đào, một trong những biểu tượng cho đảo quốc Nhật Bản, tạo thành tính đầu cuối tương ứng cho bộ phim Ước nguyện 10 năm khi hoa anh đào xuất hiện đầu phim, xuất hiện cuối phim song hành cùng chiếc máy quay. Tuy nhiên, màu phim chuyển dịch từ màu xám u ám nơi đám tang một người đã khuất tới màu nắng trong vắt nơi đường phố, cánh hoa anh đào rơi đẹp tới nao lòng, cũng là cách dụng sáng đặc trưng trong phim điện ảnh Nhật Bản, đặc biệt ở những bộ phim mang tính khơi dậy lòng yêu sống, hi vọng vào sự sống như Ước nguyện 10 năm. Đan xen với đó, là những khoảng lặng âm thanh cùng tiếng piano réo rắt, đã như mở ra dạng không gian chuyển dịch. Rằng sau sắc trời xám tối kia, nắng và gió vẫn luôn chờ đợi. Rằng trải qua đủ nỗi u ám, cô độc, đơn thương, lạc lối, người ta luôn tìm thấy nhau ở thứ tình cảm trong trẻo giữa con người với con người.

Đạt doanh thu ấn tượng trên mảnh đất Phù Tang và cũng là một trong những phim của Nhật Bản chuyển thể từ tiểu thuyết do người đóng có thành tích tốt nhất tại rạp chiếu phim ở Việt Nam; Ước nguyện 10 năm dùng ngôn ngữ điện ảnh đặc trưng của đảo quốc mặt trời mọc, chuyển tải thông điệp, nội dung không phải quá mới lạ nhưng lại chiếm được cảm tình của phần đa khán giả. Bởi có lẽ, từ nỗi thương cảm, cảm xúc người xem dần chuyển thành đồng cảm với những con người, đã sống thật với xúc cảm của bản thân, và tới tận cùng, đã không dễ dàng từ bỏ sự sống này.

MỌT MỌT

VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Giọt nước mắt mang hình vết thương

Giọt nước mắt mang hình vết thương

Cứ chiều chiều bà xay bột, tối tráng bánh rồi phơi, phơi đến khô thì mang ra chợ, vừa quạt than nướng vừa bán... (VŨ THANH LỊCH)

Tiếng chim bắt cô trói cột

Tiếng chim bắt cô trói cột

Chẳng biết bắt đầu từ đâu, nhưng trong kí ức của một đứa trẻ đôi lần lên núi kiếm củi, bứt lá rừng về lót chuồng cho lợn cho bò, thi thoảng gặp bụi sim chín ửng… thì núi sau lưng làng tôi được bắt đầu từ mé sông... (HỒ MINH TÂM)

Nguyên mẫu nhân vật Năm Thao, Năm Lựu Đạn trong "Hoa xương rồng"

Nguyên mẫu nhân vật Năm Thao, Năm Lựu Đạn trong "Hoa xương rồng"

Sòng nhậu đầu tiên ở bãi, không bến không bờ tức giang hồ thiệt thọ, đã phết cho tôi Tàn sau Minh để hóa một Minh Tàn... (NGUYỄN TRÍ)

Vòng quay ra con số vòng xoay ra phận đời

Vòng quay ra con số vòng xoay ra phận đời

Tôi nhớ cho đến đầu năm lớp 9, một đêm Dưỡng đạp xe qua nhà tôi cho lại bộ sách rất mới. Dưỡng bảo nghỉ học. Chỉ vậy thôi rồi Dưỡng đi... (TỐNG PHƯỚC BẢO)