Bình luận văn nghệ  Phê bình văn nghệ

Về phê bình kiến trúc hiện nay

Chủ Nhật, 28/04/2019 09:31

.PHẠM THANH TÙNG

1. Cách đây không lâu, giáo sư người Tây Ban Nha Sanvador Perez Arroyo tặng tôi cuốn sách Cuộc đời thử nghiệm. Đây là một tập hợp những bài viết thể hiện quan điểm, tư duy sáng tác của ông, một kiến trúc sư nổi tiếng thế giới theo trường phái kiến trúc hậu hiện đại hiện đang sinh sống và làm việc tại Việt Nam. Tôi đã dành thời gian để đọc cuốn sách này không chỉ một lần và tôi đã rất thú vị (và cả hơi tự ái) khi tìm thấy ở trong đó một cái nhìn đa chiều có phần gai góc, của một nhà kiến trúc nước ngoài khi nói về kiến trúc và xã hội Việt Nam hiện tại. Sanvador đã thẳng thắn nhận xét: “Kiến trúc Việt Nam khác với kiến trúc đương đại của châu Âu và Bắc Mĩ có lẽ do thiếu một cơ sở lí luận làm nền tảng. Trong một thế giới toàn cầu hóa, với mạng lưới thông tin vô cùng dễ dàng và thuận tiện cùng sự hiện hữu vô biên của không biết bao nhiêu là hình ảnh, người ta rất dễ sao chép và tái diễn những dự án do người khác đề xuất. Vì lí do này mà vào thời điểm hiện nay, kiến trúc Việt Nam có vẻ đang ngập ngụa trong những hình ảnh nhập khẩu từ nước ngoài mà không có một hệ thống tiêu chí rõ ràng”. Lẽ dĩ nhiên, đây chỉ là một góc nhận xét rất nhỏ, được tôi dẫn ra trong nhiều đánh giá, bình luận sâu sắc và uyên thâm về kiến trúc, về quy hoạch đô thị ở Việt Nam và nhiều nơi trên thế giới qua gần 300 trang sách của một nhà nghiên cứu, một kiến trúc sư lừng danh có tầm cỡ quốc tế.
Tôi không bình luận gì về những điều mà Sanvador nói về kiến trúc của chúng ta. Nhưng có lẽ, nhận xét của ông dù chỉ lướt qua cũng đủ làm tôi phải suy nghĩ, nó như lưỡi dao sắc bén của nhà giải phẫu học chích sâu vào một cơ thể ốm đau, để cố tìm ra khối u bệnh tật.
Vậy thực tế có phải như vậy không?
Tôi không phải là nhà nghiên cứu chuyên nghiệp, càng không bao giờ nhận mình là người làm lí luận phê bình kiến trúc. Nhưng tôi là người yêu kiến trúc, gắn bó cả đời với kiến trúc. Tôi nhìn kiến trúc, nghề của tôi, bằng cái nhìn cởi mở đa chiều để tìm thấy ở đó sự tương tác giữa kiến trúc với con người, giữa kiến trúc với thiên nhiên và giữa kiến trúc với văn hóa.
Đã từ rất lâu, tôi hoang mang đến nghi ngờ về sự hiện diện có hiệu ứng trong đời sống xã hội của phê bình kiến trúc ở Việt Nam. Trong các trường đào tạo kiến trúc sư, sinh viên đều được những giáo sư, tiến sĩ, những giảng viên giàu kinh nghiệm truyền đạt những nội dung cơ bản nhất của triết học, mĩ học, văn hóa, lịch sử kiến trúc của Việt Nam và thế giới, các trường phái, xu hướng kiến trúc thế giới… để làm nền tảng cho nghiên cứu lí luận phê bình kiến trúc và hành nghề sau này. Thế nhưng, sau khi tốt nghiệp ra trường, trong tổng số gần hai mươi vạn kiến trúc sư trên cả nước kia, có bao nhiêu người dấn thân vào lĩnh vực đó? Theo tôi, để nhìn nhận một cách rõ ràng hơn, có lẽ nên tách hai khái niệm lí luận và phê bình. Dẫu biết rằng, muốn phê bình được thì phải có lí luận và có kinh nghiệm hành nghề, nhất là với kiến trúc, một loại hình nghệ thuật đặc biệt (vừa nghệ thuật vừa khoa học) ra đời sớm so với các loại hình nghệ thuật khác như âm nhạc, múa, mĩ thuật… trong lịch sử của nhân loại. Phân ra như thế sẽ công bằng hơn cho đội ngũ những người đang lao tâm khổ tứ làm nghiên cứu lí luận ở các trường đại học, các viện nghiên cứu kiến trúc. Còn người làm phê bình kiến trúc (những người vốn rất hay ngẫu hứng và dễ xúc động), trước vốn đã thưa thớt nay càng thưa thớt hơn.

2. Kiến trúc hôm nay đang đứng trước ngã ba đường của sự phát triển kĩ thuật số, của công nghiệp 4.0, của internet kết nối vạn vật và sự bất ổn ngày càng tăng bởi biến đổi khí hậu gây ra trên phạm vi toàn cầu. Toàn cầu hóa, quốc tế hóa đã xóa nhòa biên giới mềm của mỗi quốc gia, làm cho kiến trúc bản địa được nhận diện rõ ràng hơn, khách quan hơn (kể cả tôn vinh và phê phán) trước ánh sáng soi chiếu và giao thoa của kiến trúc nhân loại. Vậy kiến trúc Việt Nam đang ở đâu trong bảng phong thần của kiến trúc thế giới?
Chúng ta đã và đang kiên trì phấn đấu cho nền kiến trúc hiện đại, giàu bản sắc văn hóa dân tộc. Đây là quyết tâm chính trị, là mục tiêu của phát triển kiến trúc Việt Nam trong thời kì mới. Khoảng gần hai mươi năm trở lại đây, trào lưu kiến trúc xanh, kiến trúc bền vững, kiến trúc thân thiện với môi trường như luồng gió mới tràn vào Việt Nam, được Hội Kiến trúc sư Việt Nam cổ súy vận động, được giới kiến trúc sư, đặc biệt là các kiến trúc sư trẻ hồ hởi đón nhận và ứng dụng vào sáng tác của mình. Mở đầu cho xu hướng này, không ai khác, theo tôi là kiến trúc sư Võ Trọng Nghĩa với tác phẩm sử dụng hoàn toàn vật liệu tre Cà phê Gió và Nước. Tác phẩm này đem đến cho Võ Trọng Nghĩa nhiều giải thưởng kiến trúc danh giá của Việt Nam và quốc tế. Và cũng từ đó, nhiều tác phẩm kiến trúc xanh của kiến trúc sư này ra đời được thế giới đón nhận và vinh danh. Võ Trọng Nghĩa đã trở thành hiện tượng của kiến trúc Việt Nam, là cái tên hot của truyền thông và là thần tượng của rất nhiều lớp sinh viên kiến trúc. Rồi khoảng mười năm gần đây, nổi lên các gương mặt như kiến trúc sư Hoàng Thúc Hào với Nhà cộng đồng Suối Rè, Homestay Nặm Đam; Nguyễn Hoàng Mạnh với Nhà hộc kéo; Đoàn Thanh Hà với Tổ ấm nở hoa; Hồ Khuê với Garden House; Nguyễn Xuân Minh với Nhà nhỏ vùng nắng gió; Nguyễn Hải Long với Nhà tổ mối… Trong sự phát triển kiến trúc xô bồ thiếu kiểm soát giữa nền kinh tế thị trường hiện nay, đóng góp của các kiến trúc sư nói trên (và còn rất nhiều người khác) là những điểm sáng của kiến trúc nước nhà rất đáng được ghi nhận và trân trọng. Và đây chính là mảnh đất màu mỡ để các nhà lí luận và phê bình kiến trúc khai thác. Trên các báo, tạp chí chuyên và không chuyên, người ta đăng tải nhiều bài viết về tác giả, tác phẩm kiến trúc, nhưng cũng chỉ dừng ở mức giới thiệu, khen ngợi (tràn trề xúc cảm!) với sự liệt kê giải thưởng này, huy chương nọ. Còn sự đánh giá khách quan khoa học, phân tích về phong cách kiến trúc, hình thức kiến trúc, tính thích dụng, tính xã hội, cái đẹp, cái tốt, cái hạn chế của tác phẩm thì không thấy, ít thấy.
Chúng ta có quyền tự hào về những thành tựu mà kiến trúc đạt được trong thời kì Đổi mới và đô thị hóa, góp phần quan trọng làm thay đổi diện mạo đất nước theo hướng văn minh, hiện đại cũng như vào tăng trưởng kinh tế, nhưng cũng đang phải chứng kiến sự phát triển nhanh đến xô bồ của kiến trúc đô thị và nông thôn (kể cả cái gọi là nông thôn mới). Chúng ta còn chưa quan tâm đến nhà ở rẻ tiền cho người nghèo, trường học, nhà ở cho đồng bào miền núi, vùng sâu vùng xa, vùng bão lũ ở miền Trung, vùng sạt lở, nước biển dâng ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long… Một bộ phận kiến trúc sư trẻ mải say sưa đến tự kỉ với kiến trúc theo kiểu “thời trang quốc tế” bằng vật liệu tre nứa lá và đất (gọi là kiến trúc xanh, kiến trúc bản địa) mà quên rằng, những yếu tố cơ bản của kiến trúc là bền vững-thích dụng-kinh tế-thẩm mĩ-phản ánh thời đại. Chúng ta cũng đang bất lực trước sự phát triển đến chóng mặt của các khu đô thị mới cô độc, thiếu kết nối hạ tầng giao thông, thiếu nhiều thành tố của đô thị như không gian công cộng, không gian xanh, nhà trẻ, trường học, cơ sở y tế… nhưng lại dày đặc các tòa nhà cao vài chục tầng bằng bê tông và kính lạnh lẽo, phi bản sắc, mọc lên ngày càng nhiều theo các đường vành đai ven đô và cả trong nội đô lịch sử. Kiến trúc hôm nay đã và đang có hiện tượng xa rời chính trị, xa rời nguyên tắc “nghệ thuật vị nhân sinh”, chạy theo thị trường mất sự kiểm soát của Nhà nước. Một bộ phận kiến trúc đang nằm trong tay các ông chủ đầu tư lớn có tiền và cả có quyền đủ để tham gia vào những cuộc chơi “điều chỉnh quy hoạch” sặc mùi kim tiền. Vị thế cao quý của kiến trúc sư là sáng tạo không gian sống an toàn, bền vững và thân thiện cho con người đang bị xói mòn bởi sự can thiệp và chi phối của cái gọi là lợi ích nhóm. Chúng ta cũng đang bất lực trước tình trạng sao chép thô thiển của một bộ phận kiến trúc sư, từ đồ án tốt nghiệp của sinh viên cho đến cả những dự án, công trình được xây cất hiện hữu trong đời sống.

3. Việt Nam đang bước vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 để hòa cùng xu thế chung của thế giới với rất nhiều quyết tâm, hứng khởi. Bây giờ không chỉ là kiến trúc xanh mà sẽ là thành phố xanh (green city), thành phố thông minh (smart city), thành phố số hóa (digital city). Kiến trúc của chúng ta cũng phải chuẩn bị để bước vào cuộc chơi lớn này. Công nghệ số sẽ làm thay đổi tư duy truyền thống của quy hoạch đô thị và kiến trúc. Hiện nay, Việt Nam chưa có đô thị nào được ghi danh trên bản đồ các thành phố thông minh trên thế giới. Và vì thế, sự lựa chọn đúng đắn cho bước đi của cách mạng 4.0 ở nước ta là phải tìm ra các điểm kết nối phù hợp trong điều kiện thực tế của đô thị hiện nay; ngoài xây dựng một chính phủ điện tử, một nền hành chính kết nối, cần thiết phải xây dựng giao thông kết nối, y tế kết nối, đào tạo kết nối, mạng lưới dịch vụ kết nối… Sẽ ra sao, khi đời sống đô thị được công nghệ số hóa? Khi ấy (theo suy nghĩ của tôi) đường phố sẽ không còn cảnh tắc nghẽn giao thông bởi người ta sẽ làm việc trong những văn phòng ảo, đi lại đã có phương tiện công cộng hay Grab, Uber… Trung tâm thương mại, siêu thị sẽ không còn rộng lớn như bây giờ và nhà phố với cửa hàng san sát cũng sẽ dần biến đổi chức năng, bởi người ta mua hàng qua mạng và được phục vụ nhanh chóng với hệ thống ship đến tận nhà. Con người sẽ chỉ cần biết đến một Amazon hay Alibaba và Ebay là có đầy đủ mọi thứ cho đời sống. Quy hoạch - kiến trúc thời 4.0 liệu rồi có thay đổi? Sẽ có rất nhiều vấn đề đặt ra cho kiến trúc như: Kiến trúc thời 4.0 là gì? Bản sắc thế nào? Mối quan hệ tương tác giữa con người với con người, con người với kiến trúc, với thiên nhiên trong một thành phố được số hóa sẽ ra sao? Kiến trúc sư Việt Nam, đặc biệt là thế hệ kiến trúc sư trẻ, những người nắm quyền lực sáng tạo để quyết định nền nghệ thuật kiến trúc nước nhà, sẽ được chuẩn bị hành trang thế nào cho cuộc cách mạng 4.0 này?... Đây là những câu hỏi lớn cần được trả lời, nếu không muốn đô thị của chúng ta trở thành bãi chứa phế thải của kiến trúc thế giới.
Vào lúc này tôi lại nhớ những lời tâm huyết của F.L. Wright, kiến trúc sư người Mĩ lừng danh thế giới, đại thụ của kiến trúc thế kỉ XX, cha đẻ của trường phái kiến trúc hữu cơ: “Hãy coi việc xây một ngôi nhà nghỉ cũng quan trọng như xây một tòa thành. Trong lĩnh vực nghệ thuật, độ lớn của một bản thiết kế không có mấy ý nghĩa, nếu bỏ qua khía cạnh tiền nong. Sức sáng tạo mới là điều thực sự cần tính đến. Một kiến trúc sư có thể lớn trong một cái nhỏ, hoặc có thể nhỏ trong một cái lớn”.
Còn mới đây, trong thư gửi các kiến trúc sư nhân kỉ niệm 70 năm thành lập Hội Kiến trúc sư Việt Nam (1948 - 2018), Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã chỉ rõ: “Kiến trúc là văn hóa, là kiến tạo. Vì thế, kiến trúc sư phải là con người văn hóa, con người kiến tạo”.
Kiến trúc Việt Nam có truyền thống lâu đời. Ở đó chứa đựng kho tàng văn hóa, tâm linh và tâm hồn Việt. Đó là bản sắc, là niềm tự hào.
Mong sao nền kiến trúc Việt Nam đương đại luôn phát huy bản sắc và niềm tự hào đó.
P.T.T

VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Cây thốt nốt quỳ trên núi Tưk-cot

Cây thốt nốt quỳ trên núi Tưk-cot

Tôi được nhiều lần sang Campuchia cùng các đội chuyên trách tìm kiếm, cất bốc, hồi hương hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hi sinh qua các thời kì chiến tranh... (HỒ KIÊN GIANG)

Nguyên mẫu trong hai truyện vừa đầu tay viết cho thiếu nhi của tôi

Nguyên mẫu trong hai truyện vừa đầu tay viết cho thiếu nhi của tôi

Khi viết cuốn Những tia nắng đầu tiên tôi đã hóa thân vào các em nhỏ học sinh lớp 6 của năm học 1969 - 1970 ở Hà Nội... (LÊ PHƯƠNG LIÊN)

Bà Minh của tôi

Bà Minh của tôi

Sống ở Hà Nội, trở thành một công dân có hộ khẩu đến nay đã hơn hai thập kỉ, nhưng chưa bao giờ tôi có cảm giác mình thuộc về Hà Nội... (ĐỖ BÍCH THÚY)

Đồng đội là nguyên mẫu trong các sáng tác của tôi

Đồng đội là nguyên mẫu trong các sáng tác của tôi

Có nhân vật chỉ là dáng dấp của nguyên mẫu, có nhân vật là nguyên mẫu đã sống và chiến đấu cùng tôi, suốt những năm tháng ở rừng... (VŨ NGỌC THƯ)