Tình yêu trên bầu trời

Thứ Hai, 27/11/2023 16:28

Nhà văn Hàn Thiếu Cung sinh năm 1953 ở Hồ Nam, Trung Quốc. Văn của ông dựa vào văn hóa truyền thống Trung Quốc, đặc biệt là thần thoại, văn hóa dân gian, Đạo giáo và Phật giáo Trung Quốc làm nguồn cảm hứng, ông cũng thoải mái vay mượn các kỹ thuật văn học phương Tây. Khi còn là một thiếu niên trong Cách mạng Văn hóa, ông được gọi là “thanh niên có học thức” và bị đưa về nông thôn để lao động cải tạo. Làm việc tại một trung tâm văn hóa địa phương sau năm 1977, ông sớm được công nhận là một tài năng văn học mới thẳng thắn, ông tái xuất vào giữa những năm 1980 với tư cách là thủ lĩnh của một trường phái tiên phong, “Truy tìm cội nguồn” hay Phong trào Xungen.

 

HÀN THIẾU CUNG (Trung Quốc)

Họ vẫn sống trên đỉnh núi, nhưng họ không giống những người trong "Mùa xuân hoa đào", câu chuyện về những người tị nạn [những người đã tìm thấy Utopia khi] chạy trốn khỏi Hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc. Họ ở đây chỉ là một cặp đôi đã bỏ trốn khỏi quê hương đến nơi đó nhiều năm trước.

Ban đầu họ sống ở huyện Xiushui, tỉnh Giang Tây và có quan hệ hôn nhân ngoài luông - người phụ nữ là vợ của cháu trai người đàn ông. Chồng cô đã đến tỉnh Quảng Đông để tìm việc làm và xa nhà nhiều năm nên cô phải nhờ chú của anh ta giúp đỡ. Để gieo cấy, cô phải nhờ chú lùa bò đi cày hộ; để bán được con lợn, cô phải nhờ chú bắt và buộc lại. Nhiều khi cô bị đau đầu, lên cơn sốt và phải nhờ chú đi tìm bác sĩ, hoặc mua thuốc và sắc lấy nước cho cô uống. Dần dà, hai người gắn bó với nhau. Lúc đó, cô là giáo viên tiểu học của làng.

Một con chim nhỏ đã thông báo cho người cháu trai nghe chuyện đó. Anh ta vội vã về nhà với con dao làm bếp trên tay, dọa giết, khiến những kẻ ngoại tình hoảng sợ bỏ chạy. Họ hầu như không có gì khi chạy trốn - thậm chí họ còn không có thời gian để mang theo một cây kim, sợi chỉ. Họ biết mình đã phạm tội loạn luân và quá xấu hổ không dám quay về làng nên họ lang thang khắp nơi, làm công việc tạm thời và ăn xin cho đến khi từ Giang Tây đến những vùng này. Cuối cùng, họ nghe nói về một cánh đồng bỏ hoang và một túp lều trống trên ngọn núi lâu đời, họ lặng lẽ định cư ở đó.

Khoảng nửa năm sau, một người đàn ông chở gỗ trên xe ngựa nhìn thấy khói từ đống lửa nấu ăn liền truyền tin. Đó là lý do tại sao chúng tôi biết về những người chiếm đất trên núi. Chính quyền thị trấn cử người đến điều tra và phát hiện ra họ không phải gián điệp hay tội phạm, chỉ là một cặp vợ chồng bất chấp đạo đức cộng đồng, một hộ gia đình không đăng ký hôn nhân phá hoại chương trình kế hoạch hóa gia đình.

Về mặt logic, những người như vậy lẽ ra phải được gửi trở lại nơi họ đã đăng ký. Tuy nhiên, một số người dân sống xa hơn dưới chân núi đã lên tiếng thay mặt họ và nói rằng họ cảm thấy tiếc cho người đàn ông và người phụ nữ điên rồ. Cặp đôi đã tuyên bố họ sẽ chết cùng nhau khi nghe tin họ sẽ bị đưa về nơi cũ. Họ nói rằng họ sẽ treo cổ tự tử trên xà nhà - mặc dù người phụ nữ đang mang thai. Khi mọi chuyện đã đến mức đó, có vẻ như ép họ ra đi không phải là một ý kiến hay. Hơn nữa, dù sao cũng không có ai khác canh tác những cánh đồng đó trên núi, và sẽ là một điều sỉ nhục đối với tổ tiên nếu để đất hoang hóa, vì vậy tốt nhất là để hai vợ chồng trồng một ít ngũ cốc trên đó.

Cán bộ thôn không nghĩ ra cách nào tốt hơn để làm nên họ giải quyết vấn đề bằng cách không làm gì cả.

Chúng tôi leo lên một con dốc cao để đến túp lều đất của những kẻ bỏ trốn. Trong sân có những chú chó, còn có ba em bé Đô Rê và Mi, rõ ràng là những đứa trẻ con thật đáng yêu. Bọn trẻ đã phát hiện ra chúng tôi ngay lập tức và bắt đầu la hét đầy phấn khích. Chắc chúng nghĩ chúng tôi là người ngoài hành tinh đến từ ngoài vũ trụ, hoặc có thể là ảo giác hình người.

Nhưng đây có phải là Vườn Địa Đàng không? Không có hoa hồng hay vòng cổ pha lê, cũng không có nguồn cung cấp trái cây thơm và ngọt vô tận. Thay vào đó, có lợn, cừu và gia cầm đã chạy tán loạn khắp nơi quá lâu đến nỗi không khí tràn ngập mùi phân hăng hăng. Dụng cụ và đồ đạc làm nông bị vứt bừa bãi. Đó là một cuộc sống quá bình thường, cả trong nhà lẫn ngoài trời - toàn bộ khu vực này là phòng khách của họ.

Có một ông già đang xay lúa. Ông ấy trông không giống cha của bọn trẻ, mà giống ông nội của chúng hơn. Lưng của ông ấy bị cong và ông ấy bị mất một số chiếc răng. Không chỉ da của ông ấy màu vàng mà răng và tóc của ông ấy cũng vậy. Mọi bộ phận trên người ông đã bị mặt trời hun thành một bộ đồng phục, màu vàng xám, giống như một miếng thịt lợn hun khói cũ. Ông ấy không biết phải chào chúng tôi như thế nào, chỉ mỉm cười mà không nói gì: Môi ông ấy mấp máy một chút nhưng vẫn không thốt ra được lời nào. Ông ta hối hả ra vào vài lần nhưng không mang trà cho chúng tôi. Cuối cùng ông ta bó tay và phải ra đồng để tìm bạn tình.

Một lúc sau cô ta trở về nhà, mang theo một gánh ngô, bước ra khỏi cầu vồng trong sương núi. Cô ấy hơi mũm mĩm, cánh tay to và vòng eo tròn trịa, nhưng đôi mắt to và lông mày dài, vẫn có chút gì đó quyến rũ của một người phụ nữ. Rõ ràng cô còn quá trẻ so với người đàn ông lớn tuổi trên. Cô ấy thực sự đã từng là một giáo viên, và điều đó thể hiện qua phong thái tự nhiên và duyên dáng của cô ấy khi cô ấy bước vào khu nhà. Giọng Giang Tây của cô mang hơi hướng phương ngữ Bắc Kinh.

Anh Long, cũng là giáo viên, nhìn ba đứa trẻ rụt rè trốn sau lưng mẹ khi hỏi tuổi các em. Anh ấy đến đó để đăng ký cho chúng vào trường học.

"Ai nói họ không [được dạy học ở nhà]? Dù sao thì đó cũng là cách của những người thuộc thế hệ chúng tôi. Chúng chỉ là những đứa trẻ..." Đột nhiên, mắt người phụ nữ đỏ hoe.

"Đó là một con đường để đến trường nhưng các em có thể nội trú ở đó. Không tốn quá nhiều tiền..."

Các em háo hức và không kiềm chế được bản thân khi nghe tin được đến trường. Chúng đọc to bảng chữ cái bính âm để chứng tỏ rằng chúng không hoàn toàn vô học. Một trong số các bé còn hát một bài hát rõ ràng là do mẹ chúng dạy cho.

“Tôi nhặt được một đồng xu bên đường,

“Và giao nó cho anh cảnh sát…”

"Đó là cách hát ấy à?" Người mẹ cảm thấy dòng thứ hai bị hát sai và yêu cầu phải sửa lại. "Và giao chúng cho anh cảnh sát.... Đó là cách thực hiện chuyển đổi. Làm lại lần nữa!" Trên thực tế, bản thân cô ấy đã hát không đúng lắm.

Một trong những đứa trẻ khác đang mang cuốn sách luyện viết của mình đến thì một đám mây cuồn cuộn bị gió thổi tới. Nó men theo sườn núi cho đến khi va vào một tảng đá, bắn tung tóe lên như một cơn sóng. Nó đóng băng trong giây lát, bay lên cao, rồi từ từ sụp đổ và nhấn chìm chúng tôi. Nhưng bà chủ nhà không mời chúng tôi ngồi vào bên trong. Cô ấy dường như coi chuyện này là đương nhiên.

Anh Long là người vùng này, bản thân anh đã xuống núi đi học từ khi còn nhỏ. Anh ta đứng đó trong sương mù với bà chủ nhà của chúng tôi, hai hình bóng trong sương mù và nói về việc trồng trọt, làm than, đào mương… và những thứ khác trong sương mù. Cuối cùng anh quay lại chủ đề thậm chí còn mù mờ hơn là học tập. Theo quan điểm của anh, vấn đề sẽ được giải quyết nếu bọn trẻ nội trú tại trường. Cha mẹ có thể đưa con đi và đón lại vào mỗi cuối tuần ở một nơi ở lưng chừng núi.

“Làm sao chúng ta biết được hôm nay là ngày thứ mấy trong tuần?” Giọng nói phát ra từ phần sương mù đó có chút bối rối. “Chúng ta chỉ biết là ban ngày hay ban đêm, trăng tròn hay trăng non. Ở trên núi này, chúng ta thậm chí không thể biết được khi nào là Tết.”

" Chị phải có một cuốn lịch."

“Và chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng ta vô tình xé một trang? Ở đây chẳng có ai mà chúng ta có thể hỏi cả.”

"Ừ... Có sóng điện thoại di động không?"

Qua làn sương mù, tôi hầu như không nhìn thấy anh Long rút điện thoại di động ra. Anh đã quên mất rằng, ngay cả khi có tín hiệu, việc sạc điện thoại di động cũng sẽ có vấn đề.

Trong khi họ đang nói những điều này, đám mây bắt đầu lặng lẽ tan thành những dòng sương mù loang lổ, chảy thành thác nước, dòng sông và hồ sương mù ở bên phải núi. Chúng tôi chứng kiến trở lại ánh nắng rực rỡ. Những đám mây như sợi bông còn sót lại rớt xuống từ vai và lòng bàn tay, chảy xuống và quấn quanh đôi giày của chúng tôi. Bây giờ chúng ta quay lại chủ đề một cách rõ ràng hơn. Tôi nói có một loại máy phát điện thủy điện nhỏ, không đắt lắm, có thể thắp sáng và bật tivi cho một gia đình. Tôi đã nhìn thấy chúng ở các khu vực miền núi khác và chúng rất đáng để thử nghiệm ở đây.

Bà chủ nhà của chúng tôi bày tỏ sự cảm ơn vì những khuyến nghị này và đã làm việc với chúng tôi để tổng hợp chi phí lưu trữ nước để tạo ra điện.

Khi thấy chúng tôi cầm gậy ra đi, cô ta nhiệt tình mời chúng tôi ở lại ăn tối. Cô ấy nói họ có gạo mới xay và cá khô nữa, và cô ấy nhất quyết yêu cầu chúng tôi ăn trước khi rời đi.

Không phải là chúng tôi không muốn ăn một bữa cơm ở nơi cao vút trên bầu trời, mà là chúng tôi lo lắng xuống núi sẽ nguy hiểm nếu không quay lại Động Ngàn Đá trước khi trời tối. Những khe núi tối tăm trở lạnh nhanh chóng và chúng tôi run rẩy nên chúng tôi xắn tay áo, cài cúc áo khoác và vội vã quay trở lại vùng đất dưới mây.

Nguyễn Hưng dịch

 

VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Vòng quay ra con số vòng xoay ra phận đời

Vòng quay ra con số vòng xoay ra phận đời

Tôi nhớ cho đến đầu năm lớp 9, một đêm Dưỡng đạp xe qua nhà tôi cho lại bộ sách rất mới. Dưỡng bảo nghỉ học. Chỉ vậy thôi rồi Dưỡng đi... (TỐNG PHƯỚC BẢO)

Cây thốt nốt quỳ trên núi Tưk-cot

Cây thốt nốt quỳ trên núi Tưk-cot

Tôi được nhiều lần sang Campuchia cùng các đội chuyên trách tìm kiếm, cất bốc, hồi hương hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hi sinh qua các thời kì chiến tranh... (HỒ KIÊN GIANG)

Nguyên mẫu trong hai truyện vừa đầu tay viết cho thiếu nhi của tôi

Nguyên mẫu trong hai truyện vừa đầu tay viết cho thiếu nhi của tôi

Khi viết cuốn Những tia nắng đầu tiên tôi đã hóa thân vào các em nhỏ học sinh lớp 6 của năm học 1969 - 1970 ở Hà Nội... (LÊ PHƯƠNG LIÊN)

Bà Minh của tôi

Bà Minh của tôi

Sống ở Hà Nội, trở thành một công dân có hộ khẩu đến nay đã hơn hai thập kỉ, nhưng chưa bao giờ tôi có cảm giác mình thuộc về Hà Nội... (ĐỖ BÍCH THÚY)