Bác Hồ học tập, kế thừa mỹ học truyền thống dân tộc!

Thứ Năm, 28/04/2022 16:37

. NGUYỄN HÀ THANH

 

Từ góc nhìn liên văn hóa chúng ta thấy nhờ biết nhiều ngoại ngữ, đi nhiều, đọc nhiều Bác Hồ đã tiếp thu những luồng ánh sáng văn hóa tiên tiến của nhân loại. Bài viết xin là một chứng minh nhỏ Người rất có ý thức học tập, kế thừa mỹ học truyền thống của dân tộc.

1. Lý tưởng, niềm tin luôn là điểm tựa tinh thần trong cuộc sống mỗi người, mỗi cộng đồng. Người ta yêu nhau trước hết là vì tin nhau: “Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo, ngũ lục sông cũng lội, thất bát cửu đèo cũng qua”. Yêu nhau, tin nhau thì “củ ấu cũng tròn”. Các cụ ta dùng chữ “thuận” để nói về những cặp vợ chồng cùng chung mục đích ước mơ, yêu nhau, tin nhau thì có thể vượt qua mọi trở ngại, dù khó khăn gian khổ đến mấy: “Thuận vợ thuận chồng bể Đông tát cạn”. Trong lịch sử giữ nước của dân tộc Việt thì vấn đề lý tưởng niềm tin luôn giữ vai trò quan trọng hàng đầu trong các cuộc kháng chiến. Hội nghị Diên Hồng thời nhà Trần chính là một biểu hiện về niềm tin và quyết tâm không gì lay chuyển, cũng là thể hiện một khí phách ngút trời cả nước đồng lòng đuổi giặc Nguyên. Thời đánh giặc Minh, Lê Lợi và Nguyễn Trãi được dân tin, quân mến “Nhân dân bốn cõi một nhà dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới”, “Tướng sĩ một lòng phụ tử…” nên mới có thể làm nên “cỗ nhung y chiến thắng”. Một trong những nguyên nhân cơ bản đã giúp dân tộc ta “đánh thắng hai đế quốc to” Pháp và Mỹ là nhân dân ta tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo thiên tài của Bác Hồ, của Đảng. Nhìn rộng ra trên thế giới chưa thấy dân tộc nào trở nên hùng cường tự chủ mà lại thiếu lý tưởng, niềm tin. Ở phương diện con người cá nhân thì nếu mất lý tưởng, niềm tin là mất tất cả: “Tưởng giếng sâu em nối sợi dây gầu dài. Ai ngờ giếng cạn em tiếc hoài sợi dây”. Em tưởng anh “sâu sắc” nên trao gởi tình yêu. Ai ngờ anh “nông nổi”, em tiếc cho niềm tin, ước mơ, khát vọng của mình, tiếc cho thời gian nuôi dưỡng tình yêu. Mà những thứ đó thì một đi không trở lại, không bao giờ lấy lại, nhất là tuổi xuân người con gái có thì…Đặt ý tứ bài ca dao này vào hoàn cảnh xã hội phong kiến xưa càng thấy nỗi đau đắng đót sâu thẳm của những cô gái có thể bị lỡ làng cả cuộc đời vì bị mất niềm tin vào một người con trai nào đó. Ngược lại, có lý tưởng, niềm tin là có tất cả, chúng luôn là cơ sở là động lực để thúc đẩy những phẩm chất khác, như dũng cảm, kiên trì, tự tin, đức hy sinh.

Người Việt chiến thắng kẻ thù bốn chân, không chân, hai chân và đang vươn lên đài vinh quang của hạnh phúc, dân chủ, văn minh bằng niềm tin còn da lông mọc, còn chồi nẩy cây.

Hồ Chí Minh kết tinh giá trị niềm tin của người Việt. Thống kê trong Hồ Chí Minh toàn tập[1] cụm từ tôi tin xuất hiện 245 lần, có 205 lần chủ thể phát ngôn là Bác Hồ. Hai chữ tin tưởng xuất hiện 348 lần, 302 lần biểu hiện trạng thái tâm lý tích cực của chủ thể tác giả Hồ Chí Minh. Mở đầu Di chúc là một niềm tin chiến thắng: Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn.

Đó là một điều chắc chắn.

Ở câu trên mệnh đề song nhất định thắng lợi hoàn toàn là một khẳng định nhưng vẫn được nhấn mạnh một lần nữa ở câu Đó là một điều chắc chắn. Để tác động mạnh hơn nữa vào thị giác người đọc, tác giả còn cho câu văn khẳng định này tách dòng đứng riêng. Các từ nhất định, hoàn toàn, chắc chắn là không thể thay thế, ví dụ dùng phép giả định tỉnh lược, để chỉ còn song sẽ thắng lợi thì nội dung câu văn vẫn giữ nguyên nhưng rõ ràng ý nhấn mạnh niềm tin đã bị giảm đi rất nhiều. Đặt Di chúc trong bối cảnh công bố (1969) khi mà cuộc kháng chiến chống Mỹ còn đang ở giai đoạn cực kỳ gian khổ càng thấy đó là một niềm tin của chân lý. Niềm tin luôn đi cùng quyết tâm, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành độc lập. Đó không chỉ là lời Bác Hồ mà còn là lời của lịch sử, của chân lý, lẽ phải và niềm tin.

2. Quan niệm cái đẹp ở trong đời sống, gắn liền, hài hòa với đời sống. Chịu sự quy định của môi trường nóng ẩm, mưa nhiều bão lắm, canh tác chủ yếu là cây lúa nước phụ thuộc nhiều vào thời tiết…nên thẩm mỹ người Việt không ưa thích cái hoành tráng, bề thế mà thích cái nhỏ nhắn, tiện dụng, bình dị và giản dị. Nhà ở cũng thấp bé vừa tránh bão tố vừa mát mẻ. Chùa bên Trung Quốc thường ở nơi thâm sơn cùng cốc nhưng ở Việt Nam thường nép mình dưới bóng đa, cộng cư với xóm làng, không quá khác với những ngôi nhà mái lá. Một đặc điểm nổi bật của kiến trúc Việt là hài hòa với thiên nhiên tạo vật, với đời sống Việt giản dị, mềm mại, uyển chuyển. Điêu khắc đình chùa miếu mạo vừa tôn nghiêm với các hình ảnh long, ly, quy, phượng…vừa có các hình ảnh sinh hoạt dân giã, đời thường, có cảnh chèo thuyền, đấu vật, có cả cảnh các cô gái đang tắm, cảnh trai gái nô đùa…Âm nhạc truyền thống thì nhạc cụ thường được chế tác từ tre gỗ với đàn tranh, nguyệt, cò, kìm…Tiếng đàn bầu và cây đàn bầu một dây với bầu đàn, cần đàn đơn sơ, giản dị mà biểu hiện đa dạng, luyến láy, tinh tế: cung thanh là tiếng mẹ, cung trầm là giọng cha, ngân nga em thánh thót… tiêu biểu cho mỹ học âm nhạc truyền thống. Hội họa với các bức tranh nổi tiếng Đám cưới chuột, Hứng dừa, Đánh ghen…cho thấy mỹ thuật Việt thiên về đời thường, gắn với thường…Cuộc sống, tính cách, tập quán của Hồ Chí Minh rất điển hình cho quan niệm thẩm mỹ gắn với đời sống, hài hòa với đời sống. Kể cả trong kháng chiến và hòa bình Bác Hồ chọn nơi ở gần gũi, chan hòa giữa thiên nhiên. Thậm chí khi là thượng khách của nước Pháp (1946) Người cũng cố chọn một nơi ở giản dị nhưng có vườn cây, có hoa cỏ. Khi là Chủ tịch Nước phải tiếp khách quốc tế Người cũng chọn tầng 1 của căn nhà sàn nhỏ nhắn giữa vườn cây. Người tự tay trồng cây, tưới cây, trồng rau, trồng hoa và thường tặng hoa, tặng cam do chính mình trồng, chăm sóc, thu hoạch cho khách. Người là họa sỹ, là nhà điêu khắc (nặn tượng Mác, nặn tượng trang trí nơi nhà sàn Pác Pó…), và đặc biệt là nhà nghệ sỹ hiểu sâu sắc nghệ thuật truyền thống.

Cái đẹp trong quan niệm của người Việt hài hòa giàu có tính biểu cảm. Người Việt sống trọng tình: Một bồ cái lý không bằng tý cái tình…Trong kho từ vựng tiếng Việt sở hữu lượng từ láy biểu cảm rất cao. Trong văn chương truyền thống cũng thiên về trữ tình mà nhẹ về tự sự. Theo học giả Phan Ngọc trong Truyện Kiều số câu tự sự chỉ chiếm 17%. Trong ca dao thì giọng điệu trữ tình chiếm vị trí chủ đạo. Âm nhạc truyền thống cũng thiên về biểu hiện nội tâm. Những điều ấy cho phép nhận xét người Việt ưa thích sự nhẹ nhàng, tình cảm, xu hướng sống với thế giới nội cảm hơn là phô bày hướng ngoại…Bác Hồ là người Việt Nam nhất khi cách ứng xử, nói và viết đều tuân theo nguyên tắc mang tính biểu cảm cao. Câu văn chinh phục về lý thuyết phục về tình, đọc lên có cảm giác không còn hình thức câu chữ mà chỉ thấy một tấm lòng chân thành rất mực: “Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột”[2]. Ở Bác Hồ văn là người, văn là tình người.

3.Hồ Chí Minh cũng thường dùng những ẩn dụ, hoán dụ quen thuộc của nhân dân. Ví dụ để nói về sự quý giá, thiêng liêng của thân xác con người, của tình người, từ vựng tiếng Việt có nhiều thành ngữ tục ngữ dùng hình ảnh máu, máu mủ, ruột, thịt…: “Quý như máu”; “Giọt máu đào hơn ao nước lã”; “Tay đứt ruột xót”; “Máu chảy ruột mềm”; “Xót tình máu mủ thay lời nước non” (Kiều)... Những hoán dụ này đi vào trong lời văn Hồ Chí Minh đậm một sắc thái biểu cảm về tình thương, về lẽ phải, lương tâm của con người:

“Các chiến sỹ đã hy sinh máu mủ để giữ gìn đất nước”[3].

“Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột[4].

Máu Pháp và máu Việt chảy đã nhiều…”[5].

“Trên đống xương máu, trên đống tro tàn, thanh niên ta, con cháu ta, sẽ xây dựng một nước Việt Nam hoàn toàn độc lập”[6].

“Thân ái gửi đồng bào các tỉnh bị bão lụt ở miền Nam,

Vừa qua, mấy tỉnh miền Nam bị bão lụt dồn dập. Hàng nghìn đồng bào bị hy sinh. Hàng vạn nhà cửa bị đổ nát. Làng mạc xơ xác, vườn ruộng tơi bời.

Máu chảy ruột mềm, được tin tức đó, tôi và toàn thể đồng bào miền Bắc rất là đau xót như muối xát vào lòng”[7].

Có cả một hệ thống ẩn dụ dân gian quen thuộc rất hay được Hồ Chí Minh sử dụng nhằm mục đích kêu gọi tuyên truyền, động viên cổ vũ như “hòn đá” (chỉ công việc nặng), “con cáo” (chỉ sự khôn ranh, tàn ác), “lửa” (chỉ sức mạnh)… từ đầu những năm 40 ở thế kỷ trước. Những ẩn dụ này đã có mặt trong thành ngữ: Nặng như đá; Trơ như đá; Khôn ranh như cáo; Cáo mượn oai hùm; Cáo nào tử tế với gà… nên lời cổ vũ tuyên truyền thấm rất sâu vào quần chúng. Để chỉ kẻ thù Người thường dùng thành ngữ “Chó dại cắn càn” (5 lần - thống kê trong Toàn tập) đã lột trần bản chất của kẻ xâm lược mà ý của thành ngữ đã nói lên: sự ngang ngược bất chấp phải trái của kẻ hung hăng. Người Việt dùng biểu tượng con rắn để chỉ những kẻ ác tâm, gian xảo, thường là để chỉ kẻ thù: Đánh rắn giập đầu; đánh rắn giữa khúc; Rắn đến nhà chẳng đánh thì quái… Bác Hồ cũng lấy hình tượng này để nói về kẻ xâm lược: “Đánh địch phải đánh cho đúng, như "đánh rắn phải đánh giập đầu"[8]. “Con rắn thực dân đã bị ta đánh gẫy lưng, song nó chưa bị đánh giập đầu. Còn đầu thì nó còn có thể cắn. Vì vậy, ta cần phải cẩn thận hơn, đề phòng hơn, chuẩn bị hơn nữa, để đánh cho giập đầu nó. Khi đó ta mới hoàn toàn thắng lợi!”[9]. Khi nói về hình tượng kẻ thù ẩn dụ của Người luôn trong xu hướng vật hoá: “lũ chó tranh xương”, “chó săn”, “thay ngựa”… Đây cũng là ẩn dụ dân gian.

4. Có cả một hệ thống biểu trưng rất phong phú trong ngôn ngữ tiếng Việt. Những biểu trưng này là những tín hiệu thẩm mỹ mà càng khám phá người ta càng nhận ra những vẻ đẹp mới. Sân đình, bến nước, cây đa… là những mô típ quen thuộc nhưng đặt trong những văn cảnh khác nhau chúng lại sáng lên những ý nghĩa mới. Chữ “xuân” đã trở thành một biểu trưng của người Việt, vượt ra khỏi nghĩa chỉ thời gian (Xuân bất tái lai…) để chỉ niềm vui, ước mong, hạnh phúc, niềm tin, tuổi trẻ (Có nam có nữ mới nên xuân…). Thơ Bác Hồ nhiều “xuân”, để chỉ thời gian: Xuân này kháng chiến đã năm xuân/ Nhiều xuân kháng chiến càng gần thành công (Thơ Chúc Tết 1951); chỉ sức sống, sự sống, sức trẻ, tuổi trẻ: Sáu mươi tuổi còn xuân chán; là niềm vui, niềm tin, lạc quan: Mừng thấy miền Nam luôn thắng lớn/ Một năm là cả bốn mùa xuân; chỉ cuộc sống đang đà sinh sôi phát triển: Mùa xuân là Tết trồng cây/ Làm cho đất nước càng ngày càng xuân… Một câu nói của Bác Hồ vừa nói đến quy luật của tự nhiên vừa là niềm tin vào thế hệ trẻ: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội”[10]. “Đồng chí Titốp chúc Tết chúng ta không những đưa cái Xuân của quả đất đến cho chúng ta mà còn đưa mùa Xuân từ hơn 70 vạn cây số đến với chúng ta”[11]. “Mừng Xuân, Xuân cả thế gian/ Phải đâu lãng phí cỗ bàn mới Xuân”[12]. Mùa xuân không còn là thời gian vật lý đơn thuần mà là niềm vui, hy vọng: “Tết bây giờ khác trước rồi. Mùa xuân của chúng ta không phải là ba tháng mà dài hơn. Gia đình, họ hàng của ta cũng đông hơn trước rất nhiều vì gia đình ta là gia đình cộng sản chủ nghĩa”[13]. “… các nước anh em… đều tiến bộ rực rỡ như hoa nở mùa Xuân. Phe đế quốc, nhất là tên trùm đế quốc Mỹ thì chẳng Xuân chút nào”[14]. “Là người theo dõi tổ chức thanh niên từ bước đầu hiếm hoi chỉ có tám cháu, ngày nay trông thấy có hàng triệu đoàn viên thanh niên, hàng triệu cháu bé nhi đồng, phát triển mơn mởn như hoa nở mùa xuân[15]. “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng”[16].

Trong Di chúc, Người cũng dùng từ “xuân” với nghĩa vừa chỉ thời gian vừa nói về về sức trẻ, niềm yêu đời: “Khi người ta đã ngoài 70 xuân…”. Đặc biệt Hồ Chí Minh rất hay dùng biểu trưng “hoa” của người Việt. Sống ở xứ nhiệt đới nên cảm quan cỏ cây hoa lá của người Việt đã tìm đến “hoa” làm biểu trưng cho những cái gì đẹp, quý giá, thánh thiện: Đẹp như hoa; Tươi như hoa… Để chỉ người con gái đẹp, thành ngữ có câu: Hoa cười ngọc thốt; Hoa dung ngọc mạo…; nói về người con gái còn trong trắng thì: Hoa xuân đương nhuỵ,… Lời nói câu văn hay thì: Hoa thêu dệt gấm… Những gì quý giá bao giờ cũng được coi trọng: Hoa thơm ai chẳng nâng niu… Hoathơm ai nỡ bỏ rơi… Theo sự khảo sát của chúng tôi, trong bộ Toàn tập có khoảng trên 200 lần Người dùng “hoa” theo nghĩa biểu trưng. Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra trong thơ Hồ Chí Minh hình tượng “hoa” là một tín hiệu thẩm mỹ truyền thống mà hiện đại, luôn toả sáng những ý nghĩa mới mẻ, sâu sắc, thâm trầm. Không chỉ có trong thơ mà trong văn xuôi, hình tượng này cũng mang những ý nghĩa đặc biệt, tinh tế, nhân văn.

“Đã có những người làm nên sự tích oanh liệt được Đảng và Nhà nước tuyên dương. Đó là những bông hoa rất đẹp trong vườn hoa chung của dân tộc"[17]. “Đó là những bông hoa tươi thắm của chủ nghĩa anh hùng cách mạng”[18].

Hình ảnh những bông hoa không chỉ vì bản thân nó đẹp mà còn ở một ý nghĩa khác, ý nghĩa tuyên truyền giáo dục vì "hoa" luôn gợi đến ở người xem sự tác động đến thị giác (màu sắc), khứu giác (hương thơm). Quan niệm của Bác trong việc giáo dục nhân rộng những tấm gương điển hình là: "Một người phải biết học nhiều người. Hơn nữa, cần làm cho món ăn tinh thần được phong phú, không nên bắt mọi người chỉ được ăn một món thôi. Cũng như vào vườn hoa, cần cho mọi người được thấy nhiều loại hoa đẹp"[19].

Chúng tôi tìm thấy một biểu trưng xuất hiện với tần số cao trong tác phẩm Hồ Chí Minh: biểu trưng gốc rễ.

“Máu xương của các tiên liệt đã thấm nhuần gốc rễ của Đảng ta, làm cho cây nó càng vững, ngành nó càng to, và kết quả khai hoa ngày càng rực rỡ”[20].

Bác Hồ là một biểu hiện tuyệt vời về đức khiêm tốn: Mong manh áo vải hồn muôn trượng (Tố Hữu), Người nhắc nhở mọi người đức tính này: "Một pho tượng hay một lâu đài cũng phải có cái nền rất vững chắc mới đứng vững được. Nhưng người ta dễ nhìn thấy pho tượng và lâu đài mà không chú ý đến cái nền. Như thế là chỉ thấy cái ngọn mà quên mất cái gốc!"[21]. Một chân lý về quan hệ giữa cá nhân và quần chúng, giữa bộ phận và toàn thể được Người diễn đạt rất dễ hiểu bằng những hình ảnh giản dị. Có những ẩn dụ bất ngờ mà giàu sắc thái biểu cảm:

“Hôm nay, trông thấy rừng cây đại đoàn kết ấy đã nở hoa kết quả và gốc rễ nó đang ăn sâu lan rộng khắp toàn dân, và nó có một cái tương lai "trường xuân bất lão". Vì vậy cho nên lòng tôi sung sướng vô cùng”[22].

“Rừng” thì bao giờ cũng có nét nghĩa chỉ một không gian rộng tập hợp của nhiều loại cây, dáng cây, thế cây. Nói “rừng cây đại đoàn kết” vừa đảm bảo tính chính xác của hình tượng vừa phù hợp với cái ý diễn tả phong trào đại đoàn kết mà “gốc rễ nó đang ăn sâu lan rộng khắp toàn dân”.

“Miền Bắc là nền tảng, là gốc rễ của lực lượng đấu tranh của nhân dân ta. Nền có vững, nhà mới chắc. Gốc có mạnh, cây mới tốt”[23].

Một ẩn dụ nói rất sâu sắc về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của miền Bắc là “gốc rễ” trong cái cây đất nước, là “nền tảng” của ngôi nhà dân tộc. Cái cây là một cơ thể, ngôi nhà là một chỉnh thể. Còn một ý nữa toát ra: miền bắc, miền trung, miền nam dù đâu là gốc, đâu là cành… thì cũng là chung một khối, một cơ thể.

Ngôn ngữ Bác Hồ giàu hình ảnh, đậm đà giá trị biểu cảm, là nhờ bắt sâu từ tục ngữ, thành ngữ, ca dao, lời ăn tiếng nói của nhân dân.

Có thể ví tư tưởng mỹ học truyền thống Việt Nam như hình tượng cây tre giản dị mà giàu sức sống, thanh mảnh mà cứng cáp, gần gũi mộc mạc mà hiên ngang cao cả, mềm mại dẻo dai mà dũng khí quật cường. Cây tre luôn gần gũi bầu bạn với người dân lao động, giúp con người lao động, sinh hoạt, và khi cần sẽ là vũ khí đuổi giặc. Tư tưởng mỹ học ấy được Bác Hồ kế thừa và phát triển nâng cao một cách tuyệt vời nhất, sinh động nhất, đẹp nhất.

Ngày nay chúng ta nói ngoại giao Việt Nam thuộc trường phái “ngoại giao cây tre”, từ góc nhìn mỹ học là rất đúng với tâm lý, tính cách, mỹ cảm dân tộc!

N.H.T


[1] Hồ Chí Minh toàn tập 15 tập. Nxb Chính trị Quốc gia 2011, xuất bản lần thứ ba (thao tác trên máy tính qua đĩa CD-ROM).

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, (2002). Nxb CTQG, tập 5, tr 40.

[3] Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd. Tập 5, tr 13.

[4] Hồ Chí Minh toàn tập.Sđd. Tập 5, tr 40.

[5] Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd. Tập 5, tr 51.

[6] Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd. Tập 5, tr 86.

[7] Hồ Chí Minh toàn tập.Sđd. Tập 11, tr 342.

[8] Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd. Tập 8, tr 119.

[9] Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd. Tập 5, tr 618.

[10] Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd. Tập 4, tr 167.

[11] Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd. Tập 10, tr 502.

[12] Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd. Tập 10, tr 39.

[13] Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd. Tập 9, tr 329.

[14] Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd. Tập 10, tr 46

[15] Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd. Tập 12, tr 66.

[16] Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd. Tập 12, tr 558.

[17] Hồ Chí Minh toàn tập.Sđd. Tập 12, tr.547, 548.

[18] Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd. Tập 12, tr 438.

[19] Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd. Tập 12, tr.551.

[20] Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd. Tập 5, tr 548,549.

[21] Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd. Tập 12, tr.549.

[22] Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd. Tập 6, tr 181.

[23] Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd. Tập 8, tr 67.

VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Vòng quay ra con số vòng xoay ra phận đời

Vòng quay ra con số vòng xoay ra phận đời

Tôi nhớ cho đến đầu năm lớp 9, một đêm Dưỡng đạp xe qua nhà tôi cho lại bộ sách rất mới. Dưỡng bảo nghỉ học. Chỉ vậy thôi rồi Dưỡng đi... (TỐNG PHƯỚC BẢO)

Cây thốt nốt quỳ trên núi Tưk-cot

Cây thốt nốt quỳ trên núi Tưk-cot

Tôi được nhiều lần sang Campuchia cùng các đội chuyên trách tìm kiếm, cất bốc, hồi hương hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hi sinh qua các thời kì chiến tranh... (HỒ KIÊN GIANG)

Nguyên mẫu trong hai truyện vừa đầu tay viết cho thiếu nhi của tôi

Nguyên mẫu trong hai truyện vừa đầu tay viết cho thiếu nhi của tôi

Khi viết cuốn Những tia nắng đầu tiên tôi đã hóa thân vào các em nhỏ học sinh lớp 6 của năm học 1969 - 1970 ở Hà Nội... (LÊ PHƯƠNG LIÊN)

Bà Minh của tôi

Bà Minh của tôi

Sống ở Hà Nội, trở thành một công dân có hộ khẩu đến nay đã hơn hai thập kỉ, nhưng chưa bao giờ tôi có cảm giác mình thuộc về Hà Nội... (ĐỖ BÍCH THÚY)