Đáy hồ trăng hát

Thứ Sáu, 14/03/2025 08:14

. BÙI TUẤN MINH
 

Bầu trời phía sông Đà hửng sáng mấy đêm nay. Người ta đang tất bật chuẩn bị tổ chức lễ khánh thành thuỷ điện, đất trời hoan hỉ, xứ Mường reo vui. Nhà Cảnh trầm lắng, bà San luôn lặng im với đôi mắt buồn u uất. Mai là ngày giỗ của Kỳ, anh trai Cảnh, anh biết mẹ vẫn đang sống trong những tháng ngày không tin con trai mình đã chết.

- Mai anh đưa mẹ lên đó.

- Thế mẹ có dự lễ kỉ niệm không, giấy mời họ đã gửi từ mấy hôm trước.

- Không, mình có là gì đâu.

Minh họa: Tào Linh

Mẹ nói với Cảnh từ chiều, anh lặng im, vì biết có nói cũng không thay đổi được gì, ý mẹ đã quyết. Đã mấy năm nay, kể từ khi Cảnh ở chiến trường về, năm nào mẹ cũng bảo anh đưa lên lòng hồ mỗi dịp cuối năm. Trước đây vợ anh vẫn làm việc đó. Mỗi lần đi Liên lại sắp hai phần lễ, hai bộ quần áo hàng mã, hai đĩa muối, hai đĩa gạo, hai bó hoa và nhiều thứ khác. Tất cả đều hai loại. Lần này Liên đổ bệnh, mẹ anh trực tiếp sắm lễ.

Hai người đi từ khi trời còn mờ đất, trăng chênh chếch, yếu ớt buông ánh sáng lên những đám mây màu trắng đục. Trăng mờ ảo lững lờ mặt nước và cong lên trên những nhịp sóng. Vẫn lão ngư phủ ấy, vẫn ánh nhìn trầm tư, bước những nhịp tập tễnh cùng điệu bộ khật khừ, lão nhận ra bà San dù mỗi năm bà chỉ tới đây một lần. Chẳng ai chở khách giờ này, lão luôn từ chối, giờ là lúc ngủ, hơi đâu. Với bà San lại khác, lão hăm hở cầm những đồ lễ y như việc của nhà mình. Trên thuyền, bàn tay lão khoan thai đưa những nhịp chèo, hai ngón chân cái tõe ra bấu chặt, đôi bàn chân Giao Chỉ ấy giúp lão vững như bàn thạch trên con thuyền chòng chành lướt trên mặt nước. Suốt buổi, lão chẳng nói, chỉ gật đầu cười khi bà San hỏi về vết thương ở chân có còn đau nhức nhối.

Nhớ lần đầu hai anh em Kỳ, Cảnh đến đây, mẹ dẫn vào vào nghĩa trang liệt sĩ. Mộ cha nằm bên cạnh hàng trăm ngôi mộ khác, những ngôi mộ giống nhau, những ngôi sao vàng cũng giống nhau, kể cả những ngôi mộ không ghi tên người. Khi người ta ngăn sông, đắp đập, nghĩa trang chuyển về nơi khác nhưng mẹ vẫn quay lại đây, ngồi trên thuyền thả xuống mặt hồ trong những cành hoa. Cảnh thắc mắc, mẹ bảo, chết ở đâu, hồn ở đấy.

Nói thế nhưng sau mỗi lần lên hồ mẹ vẫn vào thăm nghĩa trang dọn dẹp mộ phần của bố, kể cả dịp hai bảy tháng bảy.

Trong kí ức của Cảnh, nơi đây xưa là những bản làng yên ả bên sườn núi, chợ Bờ rôm rả người người cười nói, trao đổi mua bán hàng hoá, khách vãng lai chẳng mấy khi đến đây. Mẹ nhìn hai anh em, mắt gợn buồn da diết, nói rằng cha ngã xuống nơi này. Mẹ nhớ rõ khuôn mặt cha, nhờ người vẽ bằng kí ức, sau nhiều ngày, bức hoạ cũng xong rồi cẩn thẩn đặt lên ban thờ. Cảnh không biết mặt cha, đôi khi anh ngắm di ảnh từ những nét chì để cố tưởng tượng ra khuôn mặt ông, càng ngắm, càng thấy bức ảnh như vẽ anh Kỳ.

Lão ngư dừng chèo khi thuyền đến giữa hồ, mặt nước tĩnh lại, tuyệt nhiên chẳng một gợn sóng, từng làn hơi trắng từ mặt hồ bay lên bảng lảng, con thuyền mỏng manh tan dần vào sương khói. Bà San ngồi đầu mạn, sau khi miệng khấn những điều chỉ mình bà biết, tay bà không ngừng rắc những hạt gạo và muối xuống nước, chúng như biến mất khi vừa chạm mặt hồ. Hàng nghìn con cá bống trắng muốt múa những vũ điệu uyển chuyển đón lấy những hạt trần gian, chúng xuất hiện rồi biến mất theo nhịp vung tay của người đàn bà.

Lúc sau, bà San lấy bộ quần áo quan ra đốt. “Đây là dành cho ông, hãy tha lỗi cho tôi”. - Bà nói như khóc. Ngọn lửa bừng lên phơi sáng khuôn mặt buồn rầu, tiều tuỵ. Mặt hồ lã chã giọt lửa, chạm vào nước tạo những tiếng xèo xèo trước khi trở thành những những đụn tro bồng bềnh. Bà chợt cất lên những lời ca, nghe nỉ non, da diết.

Chăng ăn cầm lệ eng ơi, chăng ăn cầm lệ ún qua pui lòng.

Tình nồng thắm đất Mường, tay em thêm miêng trầu cay…

(tiếng Mường)

Cảnh khẽ thở dài. Câu chuyện mẹ kể mỗi lần lên đây cứ hiện lên từng đoạn, đứt quãng…

*

*           *

Cuối năm Tân Mão, bên bờ sông Đà, trong cái lạnh tái tê đêm đông, người lính Việt Minh trao vào tay San sợi dây bạc.

- Nhỡ tôi không về được, San cứ tìm đến làng tôi, hỏi nhà bà Sinh, là bu tôi đấy. San đưa cái này cho bu, thế nào bu cũng chấp nhận San.

- Đừng nói thế, rồi chúng ta sẽ về, nhưng liệu bu có chấp nhận em không?

- Chỉ cần San không chê, vợ tôi mất rồi, đứa con để lại cho bu nuôi. San đừng về cái xứ Mường tự trị ấy nữa.

San tròn xoe mắt, hỏi:

- Thế cho em theo Việt Minh được không?

- Được.

San mừng rỡ, tựa vào ngực anh, cô nghe nhịp tim đập rộn ràng qua chiếc áo trấn thủ dày còn vương mùi khói đạn. San biết Nam cũng yêu cô, bàn tay San nắm chặt sợi dây bạc. Miệng cô mấp máy lời hát.

Bao năm qua em chờ mong, giờ này đất quê Mường.

Tay em thêm miếng trầu thương nhớ,

Bóng núi như tình anh thăm thẳm tiếng suối,

Tiếng lòng em gọi anh lời thề giữa đất trời,

Tình trầu với cau bao đời chuyện buồn vui có nhau.

Lặng im một lúc, chàng trai cũng hát:

Mắt ăn, mắt khế thía nò/ Đở cho nó chống, nó klầm ún da, rà dựa ún hơi! (Biết ăn biết nói thế nào/ Để cho nó giống, nó giống bên em, là em ơi!)

- Sao anh biết mà hát? - San ngạc nhiên ngước nhìn người lính hát lời dân ca Mường cổ.

- Vì trái tim anh đã thuộc về đất Mường.

Anh mỉm cười dịu dàng. Mặt San bừng lên, nụ cười hạnh phúc, cô biết anh không nói dối, những người Việt Minh đã tới đây, giải thoát cho cô trong một chuyến bị bắt đi vận chuyển muối về từ miền xuôi lên đây. Những người khác nghe tiếng súng sợ hãi chạy hết, chỉ có San đứng lại, bởi cô chẳng có gì nơi xứ Mường tự trị, không cha, không mẹ, chỉ có sự nô dịch và áp bức. San có một giọng hát trời phú, lúc nào cô cũng thích hát, nghe tiếng hát có thể biết tâm trạng San vui hay buồn. Tiếng hát làm mê đắm đám quan lang, chúng thường ép cô vừa hát vừa phục vụ đám lính Pháp. Sau khi được giải thoát, cô tình nguyện ở lại theo những người Việt Minh làm dân công, ngày ngày cô nấu cơm rồi đem cho những người lính ở nhờ trong những nhà dân.

San liền cất lên lời hát đối lại:

Thiếu chi cáy rác klong bềng/ Bo eng chẳng vúc lệ mà đều óng là eng hơi!

(Thiếu gì cái nước trong chum/ Sao anh không múc lấy mà cùng uống, là anh ơi!)

Mấy hôm sau, San dẫn người yêu đi trinh sát những nơi thuộc xứ Mường tự trị. Họ bị phát hiện, đám quan quân đuổi theo, cùng đường, họ nhảy xuống dòng sông Đà cuồn cuộn. Hai người được cha con ngư phủ cứu và đưa về che giấu. Đám lính tìm đến, chúng lùng sục, tra tấn, đánh đập nhưng hai cha con nhất định không khai. Cuối cùng, một tên Pháp chĩa súng vào người con trai, hòng uy hiếp người bố, nhưng ông nhất định không hé nửa lời, súng nổ, viên đạn găm thẳng vào đùi, cậu con trai đau đớn, quằn quại la hét. Lính Pháp vẫn không lấy được thông tin gì, bởi hai cha con sống chết thề rằng không biết. Chúng đành bất lực bỏ đi…

Ít ngày sau, một trận đánh với quân Pháp hành quân từ Hoà Bình lên chợ Bờ diễn ra ác liệt, bộ đội chủ lực lăn xả giữa bom đạn tuyến trên, dân công tiếp đạn tuyến sau. Quân Pháp được một xe tăng tiếp viện bắn xối xả vào trận địa, bộ đội thương vong nhiều. Vài dân công, trong đó có San lao lên cầm súng của những người ngã xuống, chiến đấu. Khi San đứng lên bóp cò, bất ngờ một người lính lao đến đẩy cô nằm xuống trước khi một loạt đạn bắn tới, giúp San thoát chết trong gang tấc.

- Sao em lại lên đây, nguy hiểm lắm, em về tuyến sau đi.

Nói rồi, anh ghì chặt lấy đầu cô khi một loạt đạn nữa găm xối xả vào mô đất trước mặt. San ngỡ ngàng. Là anh! Nhưng tình thế nguy hiểm, đạn xuyên thép đã dùng hết để tiêu diệt xe cơ giới, chiếc xe tăng thản nhiên bắn như chỗ không người, vài quả lựu đạn được bộ đội ném đến nổ tóp tép dưới gầm xe như gãi ngứa. Chiếc xe tăng hung hăng như con quái vật. Không còn thời gian cho riêng tư nữa.

- Về sau đi!

- Không, em ở đây với anh.

- Vậy thì ở yên đây!

Nói rồi, anh cầm lấy một quả lựu đạn...Đợi khi tháp pháo quay sang hướng khác anh liền lao đến chiếc xe tăng, rút chốt, ném lựu đạn vào tháp pháo và chạy ra chỗ nấp. Nhưng đám lính Pháp ranh ma trong xe nhanh chóng ném trả quả lựu đạn ra ngoài. Anh tiếp tục thử lần thứ hai, lựu đạn không những bị ném ra nổ ở phía ngoài mà anh còn bị trúng đạn, đổ gục lên người San khi chạy về. Anh nén đau, gắng gượng nói với một chiến sĩ vừa chạy đến:

- Khi rút chốt, đợi lựu đạn xì khói mới ném vào đó.

Người chiến sĩ gật đầu lao về phía trước trèo lên tháp pháo. Đám lính trong xe không kịp ném lựu đạn ra ngoài. Một tiếng nổ long trời, con quái vật trúng đạn bùng lên như ngọn đuốc. Quân ta xung phong, reo mừng chiến thắng.

San gục đầu vào ngực anh nức nở, chiếc áo trấn thủ thấm đẫm máu, hơi thở anh thoi thóp, bàn tay nắm chặt lấy San, kịp nhắn nhủ đôi lời rồi lịm trên tay cô. San gào lên. Dòng sông Đà cuộn chảy, tiếng nước oằn mình lớp lớp thay nhau xô cào vào vách núi, nghe như tiếng khóc than của xứ Mường.

Hỡi, người thương! Em gọi anh như con cuốc kêu mùa hè.

Em chờ anh giận em như con suối giận bờ mùa lũ

Hỡi người thương cho em được thương anh, cho ta được yêu nhau

Như cây lúa yêu đồng...Mường ta.

 

Minh họa: Tào Linh

- Đây là dành cho con, hãy tha thứ cho mẹ.

Những nắm gạo và muối lại được rắc ra từ đôi tay bà San. Hàng nghìn con cá lại nhảy múa, trông như dải lụa trắng lượn bay trong nước.

Cảnh lấy ra bộ quần áo mã thứ hai đưa mẹ và châm lửa. Từ tay bà, lửa nhanh chóng bùng lên liếm gọn. Hồ lặng gió, nước như tờ, chiếc thuyền bung bênh nhè nhẹ như nôi. Mặt trời hừng lên phía núi, đáy hồ trăng trôi. Giọng bà San lại cất lên, lần này tiếng hát ấm áp, du dương:

Bồng bồng con nín con ơi

Dưới sông cá lội, trên trời chim bay

Uớc gì mẹ có mười tay

Tay kia bắt cá, tay này bắt chim

Một tay chuốt chỉ luồn kim

Một tay làm ruộng, tay tìm hái rau

Một tay ôm ấp con đau

Một tay vo gạo, tay cầu cúng ma.

Đó là lời hát quen thuộc mẹ vẫn hát ru hai anh em. Nước mắt Cảnh trào ra, chảy thành dòng. Bỗng chốc kí ức dội về, hình ảnh về người anh trai đã mất khiến anh đau đáu. Cảnh nhớ anh Kỳ. Tính Kỳ hiền lành, điềm đạm, Cảnh hiếu động, ham chơi. Dù chạc tuổi nhưng chẳng bao giờ đánh nhau, ngược lại, hai anh em thân thiết, lúc nào cũng bênh nhau chằm chặp. Kỳ lo lắng, quan tâm em và luôn nhận phần thiệt về mình, có miếng ăn ngon, bộ áo đẹp nào cũng nhường em.

Cảnh nhớ hồi mười ba, mười bốn tuổi, hai anh em đi kiếm củi, bơi sang tận bờ bên kia sông Đà, khi trở về mưa lớn, nước dâng chảy xiết không bơi về được. Đêm ấy, mẹ San ở nhà lo lắng, chạy đôn đáo khắp nơi tìm con trong vô vọng, ai cũng nghĩ hai anh em xấu số. Sáng hôm sau, hai anh em mới tìm đường về đến nhà. Trước cơn thịnh nộ của mẹ, anh Kỳ đã dứt khoát nhận lỗi, rằng chính mình rủ rê em. Thực tế Kỳ là người ngăn cản, không đồng ý cho em trai bơi sang sông khi thấy trời sắp giông, nhưng Cảnh cố chấp không nghe. Không ngăn được sự bướng bỉnh ấy, Kỳ phải miễn cưỡng đi theo. Thế mà kì lạ, người bị đánh là Cảnh, mẹ vừa đánh vừa khóc, còn Kỳ thì bị bắt quỳ trước vong linh cha.

Cảnh có sở trường bắn nỏ, mùa hội nào anh cũng giành giải cao, chả thế mà đám con gái trong vùng say mê Cảnh như điếu đổ, trong đó có Liên. Còn Kỳ, mỗi lần em trai đoạt giải, anh lại tự hào công kênh em trên vai ăn mừng.

Chiến tranh biên giới nổ ra, ngày Kỳ có giấy gọi nhập ngũ, đôi mắt mẹ quầng thâm, cả ngày hôm sau mẹ đôn đáo chạy lên uỷ ban ý kiến này nọ.

- Cha chúng nó là liệt sĩ, phải được ưu tiên.

Mẹ nói một thôi, một hồi không ai giải quyết, liền lên gặp mấy người bạn của mẹ từ hồi chống Pháp, giờ làm lãnh đạo tỉnh để trình bày, họ thông cảm nhưng vẫn lắc đầu với mẹ. Bất đắc dĩ mẹ nghiêm túc đề nghị:

- Vậy để thằng Cảnh đi thay anh.

Cuối cùng, sau một thời gian bàn đi bàn lại, họ thu hồi tờ giấy gọi nhập ngũ đầu tiên, thay giấy gọi nhập ngũ khác mang tên Cảnh.

Kỳ sững sờ, vì đã sẵn sàng chờ ngày lên đường, định lên hỏi rõ ngọn ngành nhưng mẹ ngăn lại, nhất định không cho đi.

- Con ở nhà với mẹ. Đi công nhân thuỷ điện, kiến thiết cũng là chiến đấu.

Cảnh cũng cản anh.

- Em sẽ làm rạng danh gia đình, để vong linh bố tự hào. Mẹ và anh đừng lo cho con.

Trước lúc Cảnh lên đường, mẹ muốn nói điều gì đó nhưng lời cứ nghèn nghẹn không thoát. Cuối cùng mẹ chỉ biết ôm con rưng rức khóc.

Kỳ đi công nhân thuỷ điện, còn Cảnh huấn luyện tân binh mấy tháng, trước khi ra chiến trường anh nghỉ phép về cưới Liên. Cảnh đã trải qua những thời khắc ác liệt của chiến tranh, sống giữa lằn ranh sinh tử nơi chiến trường K, phải đến gần năm năm sau anh mới có cơ hội trở về, trong một dịp tranh thủ, chớp nhoáng, lúc ấy Cảnh mới biết anh Kỳ không còn nữa. Họ bảo, Kỳ bị ngạt nước khi được giao nhiệm vụ lặn xuống kiểm tra van nhận nước bị trục trặc ở đập chính, mãi chẳng thấy ngoi lên. Mấy hôm sau, xác anh nổi lên gần chợ Bờ, chẳng ai giải thích được, người thì bảo do dòng chảy ngầm, người thì nói vùng nước ấy thiêng, xác ai trôi đến đó cũng dừng lại. Mẹ đau khổ, nỗi đau cứ ngằn ngặt giày vò mỗi ngày khi không làm tròn lời trăng trối của người chồng trước lúc hi sinh.

Ngày mẹ đón anh Kỳ về nuôi cũng là lúc bà phát hiện mình đã mang trong mình giọt máu của chồng, bà không đi bước nữa, cứ ở vậy mà nuôi hai đứa con. Cái chết của Kỳ luôn làm mẹ day dứt, dù là con riêng của chồng nhưng tình cảm dành cho hai đứa con như nhau, chẳng phân biệt đối xử để đứa nào cảm thấy thiệt thòi.

*

*         *

Thuyền cập bến khi trời đã sáng hẳn, ánh nắng chảy lênh láng mặt hồ những luồng sáng lấp lánh. Lão ngư gật gù khi bà San hẹn năm sau sẽ quay lại và không quên đưa cho lão lọ thuốc đặc trị xoa bóp xương khớp những ngày trở trời bà vẫn dùng.

Cảnh nói với mẹ mai phải trở về đơn vị nhận nhiệm vụ đột xuất. Bà San nghe thế thì ngắm nhìn anh rất lâu, đôi mắt rưng rưng. Bất kì điều gì khiến gương mặt hiền hậu của mẹ trở nên u trầm, biến sắc, đều khiến Cảnh bối rối, dằn vặt. Ánh mắt mẹ khiến Cảnh nhớ đến lần tiễn anh nhập ngũ, anh chợt hiểu ra mẹ muốn nói điều gì với anh hôm đó.

- Nhất định con sẽ trở về, mẹ đừng lo, chiến tranh kết thúc rồi.

Cảnh mỉm cười trấn an, xoa dịu nỗi lo lắng vừa nhen lên của mẹ. Nụ cười con trai làm gương mặt bà San từ từ giãn ra, nhẹ nhõm. Đã lâu rồi bà mới có cảm giác bình an trong cõi lòng đến thế

B.T.M

VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Nhân vật học viên trong truyện ngắn Mưa ở Bình Dương

Nhân vật học viên trong truyện ngắn Mưa ở Bình Dương

Trong truyện ngắn này, có một nhân vật học viên trong cương vị chủ tịch phường đang theo học lớp tại chức mà nhân vật “tôi” làm thầy giáo đứng lớp... (VĂN GIÁ)

Bóng thầm mà rực rỡ trên mỗi trang văn

Bóng thầm mà rực rỡ trên mỗi trang văn

Sau những giờ lên lớp về lí thuyết, các ông chia nhau mỗi người kèm mấy học viên sáng tác... (CHÂU LA VIỆT) 

Anh Tựu trong "Vượt lũ"

Anh Tựu trong "Vượt lũ"

Anh Tựu của chúng tôi, ngoài đời là Thầy thuốc Ưu tú, tiến sĩ, dược sĩ chuyên khoa II Trần Tựu... (KIỀU BÍCH HẬU)

Giọt nước mắt mang hình vết thương

Giọt nước mắt mang hình vết thương

Cứ chiều chiều bà xay bột, tối tráng bánh rồi phơi, phơi đến khô thì mang ra chợ, vừa quạt than nướng vừa bán... (VŨ THANH LỊCH)