Khuya Vị Xuyên
Sương khuya rơi
tôi lạnh
mặt trăng hạ huyền như màu đất đỏ
phía kia cùng một lư hương
Những mỏm đá, những mỏm đá
đâu phải là dao mà tim tôi đau
Bùn đất như chao
da thịt không còn nữa
ai khuấy nát lòng ai tờ giấy báo tử
Mười năm không ai quên
không thể quên
ngày mưa bom mười bảy
tháng hai chìm trong bão dữ
Vị Xuyên máu tuôn
hàng cây xanh nhuộm đỏ
máu thay mùi cỏ sáng thơm tho
Tại sao lại là Vị Xuyên?
những tảng núi đá hỏi nhau
hơn bốn ngàn hương linh hỏi nhau
đau xót
Câu hỏi gắn vào lòng đất
câu hỏi gắn vào nước mắt
tiếng pháo đạn, súng cối từ bên kia rót sang suốt mười năm
núi cao cũng bị bạt thấp
tuổi hai mươi dừng lại
Vị Xuyên thành Lò vôi thế kỉ
Hàng ngàn thôn, bản bị xóa sạch đã được dựng lại
gốc cổ thụ đã sinh chồi non
nhưng hàng ngàn người mẹ vẫn đang thắc thẻo
chờ tin con
nhiều ngôi mộ trong nghĩa trang
không có tuổi tên
dật dờ lắt lay ngọn nến…
Tấm bằng “Mẹ liệt sĩ” là muối xát vào lòng
mẹ muốn mình thành mỏm đá trên cao kia
mẹ muốn mình thành hang động dưới này
mà ru từng khúc ruột mềm.
Cổ tích chiến tranh
Đạn bắn bên này, bom rơi bên kia
xóm làng cháy trong chiều giáp tết
sóng vỗ sụt sùi cơn đau thắt
vàm sông trơ hốc mắt sâu
nhà ai vừa vắng một người
Trẻ con lạ với lời ầu ơ
ngủ co trong dập dồn tiếng súng
mẹ gói tiếng võng vào mảnh mo nang
người dưới lòng đất quặn xót
nhà mình cau vừa trổ hoa
Ừ, mùa này đêm nhiều gió
khăn rằn run giữa sương khuya
Ai đi từ rừng về còn đỏ bụi
vọng gọi… mẹ ơi
quê nhà xa lắm
Kẻ ở sông, vượt sông lên núi
Trường Sơn lạnh sáng, mưa chiều
ai qua truông gió để lại lá thư
gửi bên kia bờ Bến Hải
“…đừng chờ nhau!”
Không có bình minh, chỉ đêm tối thăm thẳm
vĩ tuyến 17 không còn trăng treo
mẹ thành Triệu Nữ
cha hóa Yết Kiêu
chị chôn mộng mơ dưới những vạt xuồng khát nước
đưa người vào bưng chỉ nhớ dáng đứng
con kênh chằng chịt xẻ đau
Tiếng nhái trong chiều nhập nhoạng thắt thẻo gọi bạn
ai thả mặt trời xuống hố bom xưa.
Nước mắt
Những người đàn bà không quen
nước mắt cùng mặn
ngóng cơn mưa về
hoang tưởng một tiếng gọi
Dồn dập không phải là chân bước
Sự chờ đợi bắt đầu mục rữa
mà loa kèn vẫn trắng
phượng vẫn đỏ
chỉ có bông súng tím trong hố bom rủ tàn
Nhớ thương có mùi rơm
tháng ba chạy dọc những cánh rừng biên giới
hoa ban theo về
phố chợ trắng màu sương
Những người đàn bà tải quá khứ qua dòng sông
không trôi được dang dở
cơn sốt rét vẫn ập về giữa khuya
trăng lạnh ẩm ướt ung nhọt da thịt
lõa xõa mưa núi mơ màng
Truông gió
lá rừng đỏ bay
Trường Sơn xanh mầm lá biếc
những chiếc võng gói tương lai nghìn năm câm lặng
Nước mắt kết bè
chở những người đàn bà không quen vượt biển sâu.
VNQD