Ngày nay, giới đọc sách thường háo hức chờ đợi lễ trao giải Nobel Văn chương diễn ra vào tháng 10 hàng năm để xem ai sẽ là người được xướng tên lên. Tuy nhiên trong lịch sử hơn 100 năm của giải thưởng này, có không ít người đoạt giải rơi vào quên lãng hoặc do thiếu sự cộng hưởng đương thời, hoặc do sự thay đổi về tiêu chí của Viện Hàn lâm. Một trong số đó là Władysław Reymont – nhà văn Ba Lan đoạt giải Nobel văn chương 1924.
Władysław Reymont sinh năm 1867 và là nhà văn Ba Lan thứ 2 nhận vinh hạnh này. Văn nghiệp của ông tương đối đa dạng với nhiều tác phẩm, trong đó nổi bật nhất có thể kể đến Ziema obiecana (tạm dịch: Vùng đất hứa) và Chłopi (tựa Việt: Nông dân). Cả hai đều có điểm chung là chứa đựng những miêu tả độc đáo về cuộc sống và người dân nơi đây. Tuy vậy không khó nhận ra ông đã chọn lựa một con đường riêng: miêu tả Ba Lan như nơi bẩn thỉu, khói bụi và đẫm máu thay vì tươi đẹp, mộng mơ như ta từng biết. Lựa chọn đi ngược với số đông này nhiều khả năng chính là lí do khiến Ủy ban Văn chương chọn ông là người chiến thắng vào 101 năm trước. Thời nay có thể xu hướng nói trên đã dần lỗi thời, nhưng không thể phủ nhận nó từng tạo ra dấu ấn độc đáo.

Władysław Reymont (ở giữa) cùng vợ vào tháng 8 năm 1925.
Sinh ra trong một Ba Lan vô cùng biến động, năm ông ra đời, quốc gia châu Âu này đã bị chia cắt giữa Áo, Phổ và Nga trong gần 70 năm. Cuộc đời của ông cũng không dễ dàng, khi từng làm thợ đóng giày, rồi diễn viên, công nhân đường sắt Warsaw-Vienna, ứng cử vào tu viện trước khi đến với văn chương. Tuy nhiên có lẽ vì nhiều thập kỉ sống không mục đích, nên điều không thể thiếu khi nhắc đến ông là nhà văn này chính là nhân vật quan trọng của phong trào Młoda Polska (Ba Lan trẻ) vào cuối thế kỉ 19, chủ yếu thông qua các truyện ngắn và hồi kí du ngoạn. Theo đó những người Ba Lan trẻ hoạt động trong lĩnh vực văn học, âm nhạc và nghệ thuật là những cá nhân theo chủ nghĩa tân lãng mạn, họ hoài nghi về trật tự thế giới cũng như tiên đoán nó rồi sẽ phải sụp đổ.
Cụ thể, trong Ziema obiecana, chủ nghĩa hiện đại bị lên án một cách hùng hồn, còn ở Nông dân, Reymont đã tìm kiếm giải pháp bằng cách hướng vào văn hóa nông thôn Ba Lan, một nền văn hóa tách biệt vĩnh cửu khỏi những mối quan tâm hiện đại. Trong hai tác phẩm, độc giả đều bắt gặp bạo lực, nhiều chi tiết rùng rợn và ngôn từ tục tĩu, nhưng sự lựa chọn chủ đề của Reymont cho cuốn sách sau đã định hình lại sự gai góc, mà theo những thuật ngữ của Ủy ban Nobel, là “siêu việt”, “phổ quát”. Thoạt nhìn, Ziema obiecana và Nông dân là hai tiểu thuyết hoàn toàn khác biệt. Tác phẩm đầu tiên lấy bối cảnh Łódź khi đó là trung tâm của ngành công nghiệp dệt may vốn “bị chôn vùi trong bùn lầy”. Ở đó Reymont đã ghi lại sự tàn phá khủng khiếp của quá trình công nghiệp hóa với cây cối, khi chúng “bị lột vỏ và chết một nửa bởi nước thải độc hại chảy xuống từ các nhà máy trong những khe núi sâu”.

Bộ sách Nông dân nổi tiếng giúp Władysław Reymont đoạt giải Nobel Văn chương năm 1924.
Tại đó, 3 nhân vật chính được gắn kết bởi tham vọng và tình bạn đã cố xây dựng một nhà máy của riêng mình, nhưng cuối cùng lại chứng kiến nó bị thiêu rụi vào cuối tiểu thuyết. Ở đây nó ít tập trung vào Ba Lan với tư cách quốc gia như Nông dân, trong khi nếu có, thì nó nằm ở các nhân vật đa văn hóa (với tầng lớp thượng lưu ở Łódź bao gồm người Đức, Áo, Anh, Pháp) và sự thù địch rõ ràng đối với chủ nghĩa tư bản công nghiệp (bị gọi là “con thú thối rữa chết trên giường tiền”) tương tự phong cách của Dickens hay Zola. Trong khi đó, Nông dân hầu như “thấm nhuần” Ba Lan với những đoạn miêu tả dài về các lễ hội tôn giáo và phong tục cổ xưa của nông dân. Ngoài ra, nếu như đặc trưng bối cảnh châu Âu của Ziema obiecana là hối hả và dao động, xoay quanh sản xuất, xuất khẩu, thì trong Nông dân, mối quan tâm chính của Reymont lại chủ yếu là về Ba Lan chậm rãi và tập trung vào cuộc sống thường nhật của những người nông dân như tựa đề sách.
Theo cách nào đó, Reymont đã vừa quan sát, vừa kiến tạo hình ảnh người nông dân Ba Lan trong Nông dân dựa trên sự quen thuộc của cá nhân ông với cuộc sống nông thôn, nhưng đồng thời cũng theo đuổi mối quan tâm được nhiều nhà tư tưởng và nhà hoạt động cấp tiến Ba Lan thời bấy giờ theo đuổi, trong việc xác định liệu tầng lớp này có phải hình ảnh đại diện để thể hiện một khái niệm đúng đắn về nhà nước Ba Lan hay không. Cụ thể, trong khi những người dân lương thiện cần cù không phải đối tượng đáng quan tâm đối với các nhà văn châu Âu đương thời muốn khắc họa vấn đề dân tộc chủ nghĩa, thì ở Ba Lan - quốc gia đã trải qua phần lớn lịch sử hiện đại với bản sắc được quyết định bởi các cường quốc bên ngoài, ý tưởng về tầng lớp nông dân như bản sắc riêng là đặc biệt cấp thiết. Có lẽ đây là điều góp phần tạo nên sự say mê của Reymont trong việc mô tả mọi thứ về tầng lớp này ở Nông dân, và “chất” Ba Lan trong cuộc sống hàng ngày của họ.
Nhưng nhìn sâu hơn, ẩn bên dưới là vẻ thô ráp, là sự u ám vốn có trong lựa chọn chủ đề của ông. Trong cả Nông dân và Ziema obiecana, thế giới vốn dĩ đầy bạo lực, do đó điều này được coi là bình thường. Tuy nhiên, có hai cách đọc khác nhau về đối tượng này trong mỗi tiểu thuyết, tùy thuộc vào chức năng và mục đích độc lập của chúng. Cụ thể, ở đầu Nông dân, một con bò bị giết thịt đã được tác giả được miêu tả kĩ lưỡng đến mức hầu như không còn chỗ trống cho sự tưởng tượng: “[...] nó rên rỉ và giãy giụa, máu ngừng chảy từ dưới bụng, đông lại thành những cục đen khô vụn...” Nỗi đau này tiếp tục khi những người nông dân cố gắng cứu nó, để rồi khi ở khoảnh khắc cuối đời, nó “phát ra một tiếng rống trầm đục… rồi ngã xuống, cổ họng bị cắt và chỉ còn đôi chân giật giật…” trong khi một con chó gần đó “liếm máu đông lại trong không khí thanh sạch”. Với nhịp độ cái chết chậm rãi và kiềm chế như vậy, ta hiểu bạo lực, thông qua việc chứng kiến nó, trở nên bình thường và gần như mang tính cộng đồng - một khía cạnh quan trọng của văn hóa nông thôn Ba Lan.
Còn với Ziema obiecana, khi bạo lực xảy ra, Reymont nhấn mạnh vào sự thờ ơ của những người chứng kiến và tốc độ của nó là nhanh kinh hoàng. Đơn cử khi mô tả cái chết của một người đàn ông do máy kéo sợi bông gây ra, ông thậm chí còn chú trọng đến từng chi tiết hơn cả khi miêu tả cảnh mổ bò, nơi cỗ máy giáng xuống nạn nhân một loạt những quay cuồng, quăng quật, xoay tròn, dập nát, vò nát, hất ra xa... Ở đây ta thấy Karol - một trong những nhân vật chính - bị tước đoạt nhân tính đến mức anh ta thậm chí không ở lại để chứng kiến cái kết của cuộc tàn sát: “Thang nâng nhanh như chớp đưa anh ta vào khu vực dành cho người chết.” Trong khi đó ở Nông dân, cái chết của con bò được viết chậm rãi và trầm tư hơn. Từ đây ta thấy đối với những người nông dân, bạo lực là một phần kết nối của họ với đất đai, với thiên nhiên…
Mặc dù ngày nay giải Nobel được trao cho toàn bộ di sản văn chương của một tên tuổi nào đó, nhưng vào năm 1924, Ủy ban đã nêu rõ ý định trao giải cho Reymont vì cuốn Nông dân. Chủ tịch Ủy ban khi ấy là Per Hallström trong một bài luận được công bố cùng lúc với giải thưởng thậm chí còn nhấn mạnh sự khác biệt giữa “tiểu thuyết này và phần còn lại mà Reymont sáng tác”, đồng thời gọi thế giới nông dân của cuốn sách này là “chân thực, đậm chất hiện thực”. Đối với Hallström và các đồng nghiệp, tác phẩm của Reymont đã trở nên đặc biệt đậm chất Ba Lan, thể hiện một cách sống động những chủ đề độc đáo của nó, đến mức một lần nữa nó trở nên phổ quát. Với họ, sự gai góc đặc trưng trong văn phong của Reymont tỏa sáng khi hướng đến chủ đề người nông dân, nơi bạo lực - thứ mà người ta đọc lên một cách tuyệt vọng và phi lí trong Ziema obiecana - thì nhờ vào những con người được miêu tả trong đó, lại trở nên mới mẻ và thú vị đối với độc giả châu Âu nói chung. Qua đó không ngoa khi nói sự thô mộc luôn là cốt lõi của các tác phẩm đến từ Reymont, nhưng khi hướng sự chú ý vào cuộc sống nông dân, rời xa cuộc sống hiện đại, thì ông đã vượt lên trên nó, từ đó tạo ra những tác phẩm văn chương để đời.
NGÔ THUẬN PHÁT dịch từ Asymptote
VNQD