Tản văn
Tròn nửa thế kỉ rồi…
Đất nước thống nhất, cuộc sống thay đổi từng ngày, nhưng bà Mai vẫn nhớ như in quang cảnh hôm ấy. Đúng bản tin 12 giờ trưa ngày 30 tháng Tư năm 1975, cái loa buộc trên cây gạo đầu làng vang lên:
"... Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện... Quân giải phóng đã tiến vào Dinh Độc Lập... Chiến tranh đã kết thúc, đất nước hoàn toàn thống nhất!"
Cả làng reo hò. Người già, trẻ con, đàn ông, đàn bà chạy ùa ra sân đình, ôm nhau, khóc, cười. Cờ đỏ sao vàng phấp phới trong nắng trưa rực rỡ. Tin chiến thắng lan đi như một cơn gió, thổi bùng niềm vui chưa từng có trong đời. Người ta hò nhau lên huyện đón bộ đội về, mong tìm được người thân sau bao năm xa cách.
Bà Mai cũng thế...
Rồi những ngày sau đó, trong làng lần lượt có những anh bộ đội trở về. Người lành lặn, người mất một phần thân thể. Có người trở về với những tấm huân chương lấp lánh trên ngực. Trên vai họ là những chiếc ba lô bạc màu, có người còn cẩn thận buộc theo một con búp bê, một chiếc khung xe đạp hay vài tấm vải hoa làm quà cho người ở nhà. Có những cuộc đoàn tụ trong nước mắt, có những tiếng gọi mẹ, gọi vợ nghẹn ngào.
Nhưng bà Mai thì…
Bà không chạy đi đâu cả. Bà đứng lặng bên hiên nhà, mắt ngước nhìn về con đường mòn chạy dọc cánh đồng. Nơi ấy, ngày nào bà cũng mong ngóng một dáng hình quen thuộc.
Bà nhớ ngày ông đi... Ngày ấy, bà với ông còn rất trẻ. Cưới nhau chưa được bao lâu, chưa kịp bén hơi nhau thì ông nhận giấy gọi nhập ngũ. Ông khoác ba lô lên đường. Hôm tiễn ông ở sân ga, bà cắn chặt môi, không khóc. Ông chỉ cười, xoa lên má bà: "Bé đừng khóc nhé... Ráng đợi anh về."
Bà gật đầu, cố kìm để không khóc trước mặt ông, nhưng lệ cứ trào ra ướt tràn khóe mắt. Bà phải ngoảnh đi lau vội, rồi quay lại, gượng cười, giúi vào tay ông chiếc khăn tay tự làm. Ở góc khăn có dòng chữ nắn nót được thêu bằng chỉ đỏ: "Em chờ Anh về"
Ông đi. Những lá thư đầu tiên gửi về từ chiến trường đầy ắp niềm tin, kể chuyện đơn vị, chuyện đồng đội, chuyện những con đường hành quân. Nhưng dần dần, thư thưa thớt... rồi ngừng hẳn.
Bà chờ. Ngày nối ngày. Đêm nối đêm. Năm này qua năm khác mà không có tin tức gì.
Hòa bình rồi, người ta đón những đoàn quân trở về. Nhưng bà tìm mãi, chờ mãi vẫn chẳng thấy ông đâu.
Rồi tên ông có trong danh sách liệt sĩ của làng. Đồng đội nói ông đã ngã xuống trong một trận đánh ác liệt ở Tây Nguyên. Nhưng nơi an táng cụ thể, không ai rõ.
Bà không tin. Trong lòng bà, ông vẫn còn đâu đó, chỉ là ông chưa về thôi.
Suốt năm mươi năm qua, bà vẫn ở căn nhà cũ, vẫn một mình vò võ chờ ông. Thời gian đất nước mới giải phóng, người làng giục bà đi bước nữa, nhưng bà chỉ cười buồn:
- Tôi làm gì có bước nào nữa. Tôi vẫn đợi ông ấy về.

Ảnh minh hoạ
Làng thay đổi từng ngày, những mái nhà tranh năm xưa giờ đã thành ngói đỏ. Cây gạo đầu làng, nơi treo chiếc loa báo tin chiến thắng năm nào nay đã già, cành khô trụi lá. Mỗi trưa nắng, bà Mai vẫn ngồi trước hiên, mắt dõi dọc theo con đường cũ.
Chiều nay, bà trở lại nghĩa trang liệt sĩ. Trên tấm bia đá lạnh ở hàng thứ hai, ngôi mộ thứ chín, có một dòng chữ khắc tên ông trịnh trọng. Ông không về, nhưng đây là nơi để bà đến thăm mỗi khi bà nhớ đến ông. “Bé” của anh ngày nào giờ đã thành bà lão phơ phơ tóc trắng.
Bà khẽ đặt bó hoa cúc trắng lên trên phiến đá cẩm thạch trên mặt mộ và thì thầm:
- Tôi vẫn chờ ông về...
Trong mùi hương thoang thoảng của nén hương thắp lên mộ ông, bà vẫn nghe văng vẳng đâu đây bài hát…
“Em vẫn đợi anh về,
Như buồm căng đợi gió,
Như trời xanh đợi chim,
Như lòng em khát anh
Như đời khát hoà bình
Chờ phút giây bình yên
Đợi đạn bom ráo tạnh
Để được ngồi bên anh
Để được ghen để được hờn
Để được thương để được giận
Để thành chồng thành vợ và để cùng hôn con…”
Chiến tranh qua rồi, nhưng có những đau, nhưng nỗi chờ đợi kéo dài suốt cả cuộc đời...
NGUYỄN VŨ ĐIỀN
VNQD