. ĐỖ ANH VŨ
Trong thi ca Việt từ xưa đến nay, chiến tranh và con người trong chiến tranh luôn là một mảng đề tài quan trọng, được mọi thế hệ cầm bút tập trung khai thác. Bên cạnh nhiều trang viết về người lính, hình ảnh người vợ lính cũng hiện lên qua không ít tác phẩm với rất nhiều cảm xúc, nhiều cung bậc nỗi niềm.
1. Trong kiệt tác Chinh phụ ngâm (nguyên tác Đặng Trần Côn, bản dịch Đoàn Thị Điểm) ở thế kỉ XVIII, người vợ trở thành hình tượng trung tâm, xuyên suốt từ đầu tới cuối tác phẩm. Người phụ nữ ấy thay chồng chăm sóc mẹ già, nuôi dạy con nhỏ: Lòng mẫu thân buồn khi tựa cửa/ Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm/ Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam/ Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân. Người phụ nữ ấy phải chịu nỗi cô đơn xuân sắc trong canh trường vò võ: Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu/ Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong/ Cảnh buồn người thiết tha lòng/ Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun. Người phụ nữ ấy hối hận vì khi trước đã để chồng đi lính: Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu/ Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong. Lòng người chinh phụ ấy xót xa khi những tháng năm tuổi trẻ đẹp nhất của hai người phải sống trong nỗi xa cách, nàng chỉ biết ước mong sớm đến ngày đoàn tụ: Xin vì chàng xếp bào cởi giáp/ Xin vì chàng rũ lớp phong sương/ Vì chàng tay chuốc chén vàng/ Vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng. Tiếng lòng của người chinh phụ vì thế cũng là lời phản kháng, lên án chiến tranh, chống lại sự thối nát của xã hội phong kiến đương thời, khi mà các cuộc khởi nghĩa của phong trào nông dân chống lại triều đình phong kiến đang dâng lên mạnh mẽ, còn tập đoàn phong kiến Lê - Trịnh lúc ấy đang ra sức đàn áp các cuộc khởi nghĩa nông dân.
2. Thế kỉ XX với hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ càng như chất xúc tác khiến cho thơ Việt có thêm nhiều tác phẩm in dấu hình ảnh những người vợ chiến sĩ. Có những người vợ hiện lên trong nỗi nhớ của người đi chiến đấu: Ba năm rồi gửi lại quê hương/ Mái lều gianh, tiếng mõ đêm trường/ Luống cày đất đỏ/ Ít nhiều người vợ trẻ/ Mòn chân bên cối gạo canh khuya (Nhớ - Hồng Nguyên). Có những cuộc chia tay của hai vợ chồng trong thời chiến đầy xúc động, hai người đều nén lại cái tình riêng trong lòng vì nghĩa lớn: Em đi đường đất mưa rơi/ Bùn non son quánh chân đồi Phù Ninh/ Em đi anh nhớ dáng hình/ Cái khăn mỏ quạ, cái mình áo nâu/ Chiều nay heo hút rừng sâu/ Mưa nguồn suối lũ biết đâu mà tìm/ Ước gì anh hóa thành chim/ Bay theo em hót cho tim đỡ buồn (Mưa rơi - Tố Hữu), Dừng chân trong mưa bay/ Liếp nhà ai ánh lửa/ Yên lặng đứng trước nhau/ Em em nhìn đi đâu/ Em sao em không nói/ Mưa rơi ướt mái đầu/ Mỗi đứa một khăn gói (Không nói - Nguyễn Đình Thi). Cả hai bài thơ đều được viết năm 1948, gắn với những cuộc chia tay có thật của hai nhà thơ với người bạn đời của mình. Hai cuộc chia tay đều diễn ra trong mưa, đều ẩn sau mỗi câu chữ tình yêu thương vô hạn của một người chồng - chiến sĩ với người vợ lính.
Và khi người vợ lính ấy, người phụ nữ ấy trở về với hậu phương hoặc ở lại hậu phương, sẽ có đủ những câu chuyện vui buồn. Người vợ lính có thể tham gia lao động sản xuất với niềm hân hoan phấn khởi, mong ngày chồng chiến thắng trở về như trong bài thơ Thăm lúa của nhà thơ Trần Hữu Thung, tác phẩm đã giành giải thưởng thơ tại Liên hoan thanh niên thế giới ở Bucharest năm 1953: Tiếng chim nghe thánh thót/ Văng vẳng khắp cánh đồng/ Đứng chống cuốc em trông/ Em thấy lòng khấp khởi/ Bởi vì em nhớ lại/ Một buổi sớm mai ri/ Anh tình nguyện ra đi/ Chiền chiện cao cùng hót/ Lúa cũng vừa sẫm hột/ Em tiễn anh lên đường. Nhưng người vợ ấy cũng có thể không may qua đời, để lại nỗi đau khôn nguôi trong lòng người lính: Nhưng không chết người trai khói lửa/ Mà chết người gái nhỏ hậu phương/ Tôi về/ không gặp nàng/ Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối/ Chiếc bình hoa ngày cưới/ thành bình hương/ tàn lạnh vây quanh (Màu tím hoa sim - Hữu Loan). Những nỗi xót xa vì lứa đôi kẻ còn người mất ấy, sẽ còn gặp lại trong những bài thơ nổi tiếng của thời chống Pháp và chống Mĩ như Núi Đôi của Vũ Cao hay Quê hương của Giang Nam: Anh ngước nhìn lên hai dốc núi/ Hàng thông, bờ cỏ, con đường quen/ Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói/ Núi vẫn đôi mà anh mất em (Núi Đôi - Vũ Cao), Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm/ Có những ngày trốn học bị đòn roi/ Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất/ Có một phần xương thịt của em tôi (Quê hương - Giang Nam).
Trong một giọng điệu khác, Nhớ vợ của Cầm Vĩnh Ui là tiếng thơ hồn nhiên và độc đáo của người lính thời chống Pháp. Người vợ hiện ra gián tiếp qua lời xin phép của chồng với cấp trên cho mình được về thăm vợ. Vợ không chỉ là hậu phương vững chắc mà còn góp phần làm nên chiến công cho người chồng ngoài mặt trận: Ngày kia tôi sẽ đến/ Lại cầm súng được ngay/ Tôi sẽ bắn đúng Tây/ Vì tay có hơi vợ/ Cho tôi đi anh nhé/ Tôi không chết được đâu/ Vì vợ tôi lúc nào/ Cũng mong chồng mạnh khỏe/ Cho tôi đi anh nhé/ Về ôm vợ hai đêm/ Vợ tôi nó sẽ khen/ Chồng em nên người giỏi/ Ngày kia tôi về tới/ Được đi đánh cái đồn/ Hay được đi chống càn/ Là thế nào cũng thắng/ Nếu có được trên tặng/ Cho một cái bằng khen/ Tôi sẽ rọc đôi liền/ Gửi cho vợ một nửa. Khép lại bài thơ, người đọc cảm thấy thật thích thú về cách tư duy mộc mạc, chất phác nhưng chân thật của một người lính dân tộc thiểu số. Đồng thời chúng ta cũng cảm nhận được tình yêu của người chồng đối với vợ, của vợ dành cho chồng. Chồng tin mình không chết là nhờ có tình yêu của vợ. Cách nghĩ này ta còn gặp lại trong bài thơ Đợi anh về của Simonov qua bản dịch của Tố Hữu: Vì sao anh chẳng chết/ Nào bao giờ ai biết?/ Có gì đâu em ơi/ Chỉ vì không ai người/ Biết như em chờ đợi.
3. Người phụ nữ Việt Nam nói chung, những người vợ lính nói riêng, trong thời chiến thật xứng đáng với tám chữ vàng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh trao tặng: “Anh hùng - bất khuất - trung hậu - đảm đang”. Những người vợ lính còn mang bao nỗi hi sinh thầm lặng. Những hi sinh ấy kéo dài sang cả thời hậu chiến với bao nỗi niềm. Nhà thơ Hồ Anh Tuấn đã nói giúp tấm lòng người vợ lính qua những dòng lục bát ngọt ngào mà day dứt: Ra sông giặt áo cho chồng/ Mây xanh thả xuống một dòng sông xanh/ Áo đạn xé, người đâu lành/ Trường Sơn một cánh tay anh gửi rừng/ Bến sông bóng chị rưng rưng/ Sông bao nước mắt dửng dưng được nào/ Gái quê như hạt mưa rào/ Đã vào tay lính là trao trọn đời/ Mỗi năm chỉ một lần thôi/ Áo Trường Sơn giặt lại phơi nắng hồng/ Ra sông giặt áo cho chồng/ Thời gian vò rối bòng bong tay người/ Súng gươm một trận khóc cười/ Gái quê buồn thả sông trôi se lòng/ Ra sông giặt áo cho chồng/ Vắt vai cả một dòng sông mang về. Câu thơ cuối bài đã chạm vào siêu thực. Dường như tất cả những mất mát, xót xa và yêu thương, người phụ nữ ấy đều gửi cả vào dòng sông. Dòng sông cũng thấu hiểu cái tình của con người mà vỗ về xoa dịu thương đau.
Thế nhưng còn có những người phụ nữ là vợ lính mà chưa một ngày được làm vợ. Chưa một ngày được làm vợ mà vẫn là vợ lính bởi đã hứa hôn. Hứa hôn rồi thì mãi mãi đợi chờ, dù người lính ấy chẳng bao giờ về nữa. Cũng với thể thơ lục bát, nhà thơ Trần Mạnh Hảo đã viết nên những câu thơ khắc khoải, quặn thắt của một thân phận con người: Chị làm dâu cuộc chiến tranh/ Hòa bình khóc kẻ chưa thành lứa đôi/ Hứa hôn với lính lâu rồi/ Nghĩa trang chị bạc tóc ngồi làm dâu/ Giá ngày xưa kịp lấy nhau/ Giờ này chắc đã con đầu bằng anh/ Đất sâu đợi rỗng tiểu sành/ Mộ chưa có cốt rừng xanh gửi hồn/ Mỗi khi chim lợn kêu dồn/ Khói hương khấn gió Trường Sơn tìm mồ/ Đêm về đội lén khăn sô/ Thương người nằm khoác ba lô mối đùn/ Tay sờ ảnh mộ còn run/ Xin thương rế rách chổi cùn chiến tranh/ Gọi thầm nấm đất bằng anh/ Chị xin nhận tấm cỏ xanh làm chồng (Làm dâu). Nếu như người lính trong bài thơ của Hồ Anh Tuấn chỉ gửi lại một phần thân thể ở chiến trường thì người lính trong bài thơ của Trần Mạnh Hảo đã hòa tan thân mình vào đất mẹ, chẳng thể có một nắm hài cốt về lại quê nhà. Nỗi đau của hai người phụ nữ trong hai bài lục bát chẳng thể nói được hết bằng lời.
Những người vợ lính, hay rộng hơn là những người yêu của lính đã trở thành nguồn cảm hứng không chỉ cho nhiều bài thơ mà còn cho nhiều tác phẩm âm nhạc. Có thể kể đến hàng loạt ca khúc nổi tiếng như Tình ca (nhạc và lời Hoàng Việt), Gửi em ở cuối sông Hồng (thơ Dương Soái, nhạc Thuận Yến), Tình ca mùa xuân (thơ Nguyễn Loan, nhạc Trần Hoàn), Mùa xuân bên cửa sổ (thơ Song Hảo, nhạc Xuân Hồng), Thư cho vợ hiền (nhạc và lời: Song Ngọc)… Những người phụ nữ trong các ca khúc vừa nhắc luôn hăng say lao động sản xuất trong đời sống hàng ngày, luôn dành một tình yêu thủy chung son sắt cho chồng/ người yêu, luôn lạc quan tin tưởng về ngày đoàn tụ, tiếp thêm sức mạnh vô bờ cho người lính. Và tình yêu của người lính ở mặt trận với người vợ/ người yêu ở quê nhà luôn là tình yêu đẹp nhất được tụng ca, bởi ta thấy trong đó cả tình yêu và sự hi sinh lớn lao dành cho quê hương xứ sở.
Đ.A.V
VNQD