Làng trong hoài vọng

Thứ Ba, 04/02/2020 11:23

. NGUYỄN TRỌNG HOÀN

*Gửi làng Khê Than yêu quý của tôi

Một ngôi làng nhỏ bé, khiêm nhường nép mình bên nhánh sông Cửu Yên bốn mùa phẳng lặng. Hai cây gạo mở cửa ra thế giới đầu làng, xù xì gốc ba bốn đứa trẻ ôm không xuể, tương truyền do các cụ từ xưa mơ ước cho làng đủ gạo ngày mấy bữa cơm. Làng, nơi tuổi thơ tôi ở đó - lam lũ bạn bầu cùng giỏ cua, vó, rọ, nơm, chài; lầy lội cùng đường sống trâu, áo tơi, nón lá; lẫn vào tất bật việc nhà nông phập phập phồng tháng tám ngày ba, chiêm khê mùa lụt...

Chẳng biết nguyên cớ gì, cứ mỗi khi chợt nghĩ đến làng là lại cảm giác như có mùi bùn hoai hăng hắc nghẹn dâng đầy ngực. Bố mẹ không sinh con gái, bảy tuổi đã được cùng bà và mẹ ra đồng ra bãi, rồi như là lao động chính trong nhà. Nghe tiếng "làng" là trong tôi đồng hiện hình ảnh của bà nội. Cứ có các bác mạn Bắc Giang, Phú Thọ, Tây Bắc về mời, bà lại chỉ ậm ừ. "Suốt đời bà không đi đâu bởi xa làng một ngày là không chịu được" - bà nói nhiều lần như vậy nhưng khi ấy còn nhỏ quá, nào tôi đã hiểu gì! Rồi một ngày bà thăm thẳm theo ông, về cõi; sững lại một dáng lom khom, một nụ cười răng đen môi trầu bỏm bẻm, một kho cổ tích ngụ ngôn thủ thỉ. Tôi lẫn vào đám trẻ cùng trang lứa trong làng, còm cọc, rồi cũng lớn lên như cỏ như cây, như khoai như lúa. Nhận giấy báo vào đại học, tôi bùi ngùi thắp hương cẩn vái: "Cháu xin phép từ mai sẽ đến một nơi chắc toàn người lạ, nhưng cháu biết bà vẫn luôn ở bên". Háo hức suốt đêm rồi trời cũng sáng. Tờ mờ hôm sau, khi ngước nhìn hai cây gạo đầu làng, hít một hơi thở thật sâu, xao xuyến mùi khói sớm thân thuộc tôi mới bàng hoàng nhận thấy một nỗi buồn mơ hồ dồn nghẹt. Rời làng, lần đầu tiên trong đời tôi thấm thía lời bà nội, song bà ơi, không kịp nữa. Lặng nhìn mấy chấm lửa bập bùng trong bếp và nghe rộn rực những âm thanh quen thuộc của một ngày mới bắt đầu. Rồi hướng về phía nghĩa trang, nhắm mắt nhìn vào tâm tưởng. Có cảm giác thấy bà mỉm cười nhìn theo cái dáng lủn củn của thằng cháu nội.

Ảnh minh họa

Có một điều rất lạ: xa làng, cả khi trong mơ tôi cũng thấy làng rất rõ. Ngôi làng cổ như nhiều ngôi làng tôi đã từng qua. Nhưng tôi cũng thấy chẳng nơi đâu riêng nét làng mình. Cũng "tiếng làng, tiếng nước" nhưng âm sắc của mỗi ngôi làng chẳng lẫn được đâu. Làng, dường như không chỉ là một đơn vị hành chính, một quần thể tụ họp dân cư mà còn ẩn chứa bao điều thiêng liêng hơn thế. Ngày xưa "phép vua thua lệ làng" - tôi nghe nói thời phong kiến lệ làng ngặt lắm. Người ngoài dẫu muốn, nếu không có mấy trăm viên gạch thất (để lát nghiêng đường) đâu dám rước gái của làng? Bởi vì làng giữ "lệ". Lệ xưa không phải là luật nhưng ai dám không theo? Thì đấy, lối "ăn xổi ở thì", lỗi con cãi cha, xem người sống "xanh vỏ đỏ lòng" hay gặp khó làm ngơ... lập tức "bia miệng tiếng đời", lập tức cả làng tránh mặt! Cái cộng đồng nhỏ bé dẫu chỉ mấy chục mái tranh lẫn ngói quây quần bên nhau ấy tự hình thành chuẩn mực - một thứ chuẩn mực của tình làng nghĩa xóm, tắt lửa tối đèn "không ai nắm tay thâu ngày đến tối", một thứ chuẩn mực lấy thuần hậu bao dung, nhân ái nghĩa tình làm gốc. Không lý luận cao siêu mà vững như đá tảng, như heo may đầu mùa cũng thấu tận tâm can. Thời gian trôi đi lặng lẽ, đem theo cả tiếng lặng lẽ thở dài của nỗi người những khi giáp hạt, làng khi ấy là "một miếng khi đói bằng một gói khi no". Chuyện hay, gương tốt được làng truyền tụng, có khi theo suốt đời người, truyền sang đời khác. Nét đẹp tự nó có một giá trị vững bền. Điều chướng tai gai mắt không qua được dân làng. Thì đấy, cả làng cùng gánh nước ăn trong một cái giếng thơi, quấn túm quây quầný ới cùng một nỗi âu lo ấm lạnh. Như cái giếng đầu làng xây tự đời nảo đời nào, quanh năm trong mát, khi ở xa về vục lên nón nước, khoả mặt vào đấy sẽ thấy như được trút hết bụi trần, như được khỏa hồn vào một bầu rưng rưng nguyên khiết. Người làng có giọng riêng sền sệt, như thể tín hiệu để nhận nhau ở mọi phương trời. Lũ trẻ con chúng tôi lớn lên từ sau luỹ tre làng ấy, từ thế giới của rất nhiều chuyện kể từ ma mị hoang đường đến tương truyền phóng đại ấy mà sau này con cháu muốn nghe chắc không thể tìm trong thư viện. Nhưng đừng lo, bao giờ làng cũng có người cao tuổi - đó là những thư viện nhân dân, thư viện của muôn đời. Bươn bả kiếm sống, có người mải mê mụ mẫm quên lối hoặc vì một lý do gì không thể trở về, nhưng làng vẫn đấy, sừng sững tự nhiên một biểu tượng thuỷ chung chẳng khác một bến đò.

Có lần tôi về làng đúng rằm tháng bảy. Dưới gốc cây gạo, lại bồi hồi nghĩ đến lớp lớp người làng đã qua đây. Niềm mơ ước ấm no của làng vẫn sum suê toả bóng, mặc dù làng đã hết nỗi lo ăn. Rằm tháng bảy - ngày "xoá tội vong nhân", nhà ai cũng nhộn nhịp khác thường. Mâm cỗ dù to dù nhỏ, mua sắm dù ít dù nhiều, sang hèn bất luận nhưng nhà ai cũng nấu một nồi cháo hoa, múc bày la liệt để thỉnh những hương hồn lang thang vô chủ. "Trần sao âm vậy", tục làng truyền lại như một lời nhắn nhủ hãy biết động lòng trắc ẩn, hãy nghĩ xa sâu. Đêm, nằm trong ngôi nhà ăm ắp tuổi thơ mà thao thức chập chờn. Biết làm sao, khi đang ở giữa làng mình mà vẫn nhớ làng da diết. Cuộc sống nơi phố thị mải miết bao ngổn ngang thiếu đủ, nhưng dường như nỗi nhớ làng là không gì bù đắp.

Nghe những đợt gió khe khẽ thổi từ khu vườn luồn qua song cửa, không nhìn ra tôi cũng có thể hình dung vườn trăng đang quạnh quẽ. Nhập nhoà bao gương mặt, nhập nhoà những tháng ngày thơ ấu thấm đẫm bần hàn và ngợp tràn hạnh phúc bên những người thân. Tiếng gà gáy sang canh rộn rã. Theo quy luật, từng thời khắc lại lặng lẽ trôi đi, nhưng nỗi đau đáu hoài vọng về làng thì nguyện đừng phai nhạt...

N.T.H

VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Vòng quay ra con số vòng xoay ra phận đời

Vòng quay ra con số vòng xoay ra phận đời

Tôi nhớ cho đến đầu năm lớp 9, một đêm Dưỡng đạp xe qua nhà tôi cho lại bộ sách rất mới. Dưỡng bảo nghỉ học. Chỉ vậy thôi rồi Dưỡng đi... (TỐNG PHƯỚC BẢO)

Cây thốt nốt quỳ trên núi Tưk-cot

Cây thốt nốt quỳ trên núi Tưk-cot

Tôi được nhiều lần sang Campuchia cùng các đội chuyên trách tìm kiếm, cất bốc, hồi hương hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hi sinh qua các thời kì chiến tranh... (HỒ KIÊN GIANG)

Nguyên mẫu trong hai truyện vừa đầu tay viết cho thiếu nhi của tôi

Nguyên mẫu trong hai truyện vừa đầu tay viết cho thiếu nhi của tôi

Khi viết cuốn Những tia nắng đầu tiên tôi đã hóa thân vào các em nhỏ học sinh lớp 6 của năm học 1969 - 1970 ở Hà Nội... (LÊ PHƯƠNG LIÊN)

Bà Minh của tôi

Bà Minh của tôi

Sống ở Hà Nội, trở thành một công dân có hộ khẩu đến nay đã hơn hai thập kỉ, nhưng chưa bao giờ tôi có cảm giác mình thuộc về Hà Nội... (ĐỖ BÍCH THÚY)