Hành hương

Thứ Tư, 16/11/2022 00:51

. QUYÊN GAVOYE
 

Minh họa: Nguyễn Đăng Phú

Tàu hú còi lần thứ nhất.

Chuyến tàu đầu tiên trong ngày đi về miền đất thánh Lourdes chuẩn bị khởi hành. Mỗi ngày có ba chuyến. Vào mùa lễ hội nhà ga tăng lên mười lăm chuyến. Chuyến tăng, người tăng. Không ai muốn trễ chuyến tàu của mình dù thời gian chờ đợi giữa các chuyến không lâu. Hôm nay lại càng đặc biệt hơn, giáo xứ Lourdes tổ chức lễ ban phước cho những người kém may mắn. Những người cuồng tín luôn tin vào sự diệu kì ở Lourdes dù họ biết chắc chắn rằng không phải lời ban phước nào cũng trở thành hiện thực, nhưng cũng có không ít những điều kì diệu đã xảy ra…

Khoang tàu chật cứng những người và người.

Mùi mồ hôi. Mùi bụi bặm. Mùi thức ăn. Đủ mọi thứ mùi quyện vào nhau tạo thành một thứ mùi rất đặc trưng mà chỉ những người sành đi tàu mới nhận ra.

Phía dãy ghế bên phải, một nhóm thanh niên tầm dưới hai mươi trong đồng phục hướng đạo sinh cười nói rổn rảng, họ tin vào sức truyền cảm của Lourdes. Lourdes sẽ giúp con người khai sáng tâm hồn để hướng tới “một xã hội tốt đẹp hơn xã hội họ đang sống”, một hướng đạo sinh nói. Mùi phấn son. Mùi nước hoa. Tất cả đều toát ra mùi của tuổi trẻ.

Ở phía cuối khoang, một nhóm những người phụ nữ trung niên son phấn nhẹ nhàng tiến vào cười nói sang sảng lấn lướt cả tiếng còi tàu. Cô béo nhất thả người ngồi uỵch xuống ghế, ở chỗ ngay cạnh cửa sổ. Rồi lần lượt những người cùng đoàn tìm được chỗ nào thì ngồi vào chỗ ấy.

Phía dãy ghế bên trái, một đám người khó phân định tuổi tác và mối quan hệ hơn phía đối diện. Họ gồm những gia đình đi kèm trẻ em, những cặp đôi không có trẻ em đi cùng, vài ba người khuyết tật và thêm một vài người đi một mình nhưng chẳng có vẻ gì buồn bã thường thấy của những lữ khách cô đơn.

Những người đi một mình im lặng tiến vào khoang, ngồi vào những chiếc ghế còn trống đơn lẻ nhường những chiếc ghế dài cho các gia đình có con nhỏ. Trông họ giống như những con chiên đang tiến vào nhà thờ hành lễ nhưng có vẻ như họ không có điều gì cần phải cầu nguyện. Khuôn mặt của họ biểu đạt một sự thanh thản của những con chiên ngoan đạo đang làm nhiệm vụ đến thăm Chúa. Chỉ đơn giản là sự trở về thăm viếng cha mẹ của những đứa con, thế thôi.

Một cách rất văn minh, ai rồi cũng tìm được chỗ ngồi mà không cần phải chen lấn. Bởi vậy ở họ toát lên một sự hài lòng của những người khách du lịch bắt đầu cuộc hành hương. Những chuyến tàu về Lourdes bao giờ cũng toát lên một sự văn minh của những con người yêu Chúa.

Sự văn minh đó chỉ dành cho người lớn, trừ lũ trẻ. Lũ trẻ bắt đầu nhốn nháo át cả tiếng cười nói rổn rang của đám thanh niên và giọng nói sang sảng của những phụ nữ trung niên và mặc kệ những cái “suỵt” rõ dài của các bậc phụ huynh kèm động tác đưa ngón tay đặt dọc miệng ra hiệu cho chúng giữ trật tự. Chúng vẫn hồn nhiên biểu hiện sự hài lòng của mình. Có bao nhiêu đứa trẻ trên thế giới này được thường xuyên đi tàu? Và vì thế chỉ riêng chuyện được đi tàu đã đủ khiến chúng thấy hưng phấn. Chúng không cần đến những lời ban phước để được hạnh phúc.

*

* *

Tàu hú còi lần thứ hai.

Những chiếc va li cuối cùng cũng đã được sắp xếp gọn gàng trên giá để đồ phía bên trên ghế ngồi. Một chiếc va li khép hờ để rơi ra một con búp bê. Đôi mắt của con búp bê bật mở, tròn xoe và xanh lơ, long lanh như cặp mắt của đứa trẻ vừa qua cơn hờn dỗi. Đứa bé ngồi phía dưới giá để đồ nhặt con búp bê lên. Tiếng reo đầy phấn khích của nó đánh thức sự chú ý của đứa trẻ bé hơn ngồi bên cạnh.

“Búp bê của em.”

Đứa trẻ bé hơn vừa nói vừa giật khỏi tay đứa kia. Nhưng đứa trẻ nhặt được con búp bê cũng không để mất dễ dàng con búp bê, nó giật lại.

“Của anh.”

Tiếng hét của hai đứa trẻ làm đám người lớn giật mình. Khoang tàu bỗng nhiên im bặt tiếng cười. Chỉ còn lại tiếng hét của hai đứa trẻ. Con búp bê cuối cùng được đưa lại cho đứa bé hơn nhưng mặc định phải cho đứa nhặt được chơi chung.

Khoang tàu ồn ĩ trở lại.

Giữa hàng chục những chiếc va li đủ màu, có lẽ đáng chú ý hơn cả trên giá để đồ chính là bó hoa duy nhất nhưng mùi hương bay khắp khoang tàu và một hộp quà được gói trang trọng bằng giấy màu của một hãng sô cô la nổi tiếng nhất trong thành phố nơi có ga tàu đang dừng mà người đàn ông trong bộ veste xanh dương vừa đặt lên với tất cả sự thận trọng để không một chiếc va li nào đè vào chúng. Chắc hẳn món quà phải rất đắt. Những người phụ nữ trung niên ngước nhìn bó hoa rồi nhìn hộp sô cô la. Trong mắt họ ánh lên một chút thèm thuồng nhưng rồi họ kịp cúi xuống vuốt ve cây thập tự đang đeo trên cổ như một lời sám hối.

Người duy nhất không ai để ý đến là một ông già cỡ tám chục hoặc hơn trong bộ đồ kì dị. Hình như đó không phải là người của vùng này hoặc cũng có thể đó là một diễn viên trở về sau vai diễn và chưa kịp thay quần áo. Ông già không nói câu gì và cũng không có hành lí mang theo, ông lặng lẽ ngồi vào chỗ và giữ im lặng. Không ai nhìn thấy ông nên không ai biết ông lên tàu trước hay sau khi tàu hú còi. Chỗ ngồi của ông là ở cuối khoang, sâu trong góc cạnh cửa sổ và ở bên cạnh người đàn ông mặc đồ veste màu xanh dương lịch lãm. Có thể đó chính là lí do để không ai nhận ra sự có mặt của ông dù bộ đồ ông mặc trên người không hề bình thường chút nào.

*

*         *

Tàu hú còi lần cuối cùng rồi chuyển bánh.

Hành lang của ga tàu dần dần lùi lại phía sau trước khi biến mất hoàn toàn. Khoang tàu bớt nhốn nháo. Mọi người đã ổn định chỗ ngồi. Bây giờ mỗi người làm một việc. Nhóm thanh niên mang bài tarot ra chơi. Đám phụ nữ trung niên tiếp tục những câu chuyện dở dang lúc lên tàu. Các gia đình có con nhỏ mở sách cho lũ trẻ tô màu. Những người khách đơn độc giở báo ra đọc, một vài người đọc kinh thánh. Hai đứa trẻ cùng với con búp bê có đôi mắt màu xanh lơ chụm đầu vào nhau. Từ chỗ chúng ngồi, tiếng hát cất lên cao vút với âm lượng vừa đủ của thanh âm vọng về từ nơi xa. Không ai biết đó là tiếng hát của đứa lớn hay của đứa bé, hoặc cũng có thể đó là tiếng hát của con búp bê. Không một âm thanh nào được phát nhưng thanh vực cao vút và mơ hồ. Những thanh âm tựa hồ như tiếng sáo vọng về từ miền thăm thẳm. Khoang tàu như bất chợt bồng bềnh.

“Chết vào một ngày như thế này mới không có gì để nuối tiếc.”

“Cậu vừa nói gì?” Ông già hỏi người đàn ông.

“Cháu có nói gì đâu?” Người đàn ông ngạc nhiên nhìn ông già.

“Cậu có nói điều đó. Tôi đã nghe thấy.”

Người đàn ông ngắc ngứ. Rõ ràng là anh ta không nói gì. Có ai lại đi nói chuyện một mình trong một nơi đông đúc bao giờ. Họa chăng đó là những người có vấn đề về thần kinh.

“Hình như cậu vừa nói đến cái chết?”

Người đàn ông kinh ngạc. Sao ông già có thể biết được suy nghĩ của mình? Ông ta là thánh chắc? Không phải, chắc chắn không có thánh thần gì ở đây. Chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Người đàn ông lắc đầu và mở tờ báo ra đọc, ông già tiếp tục lặng im nhìn qua khung cửa kính.

*

*          *

Tàu bắt đầu tăng tốc băng qua cánh đồng.

Thành phố dần lùi xa. Trong vài khoảnh khắc, thành phố chỉ còn là một vệt nho nhỏ phía sau.

Mùa hạ. Đúng là đang mùa hạ. Cánh đồng đỏ rực màu đỏ của hoa hồng. Người đàn ông gấp lại tờ báo và ngước nhìn cánh đồng rồi nhếch khóe miệng cười một mình. Màu đỏ của hoa hồng nhung đẹp nhường kia mà tại sao các nhà thơ lại có thể ví chúng với màu đỏ của máu? Lẽ ra nếu người đàn ông biết làm thơ thì anh ta sẽ gọi cánh đồng hoa hồng vào mùa hạ là thảm lửa. Ồ, đúng thế. Còn gì tuyệt vời bằng hình ảnh con tàu lao đi giữa một rừng lửa trong một buổi sáng mùa hạ nóng bỏng?

“Chết vào một ngày như thế này mới không có gì để nuối tiếc. ” Người đàn ông lặp lại suy nghĩ.

“Tại sao cậu lại nghĩ rằng sẽ chọn chết vào một ngày nào đó?” Ông già hỏi.

“Làm sao... Ông đọc được suy nghĩ của cháu?” Người đàn ông không thể giấu thêm nữa sự ngạc nhiên và tò mò.

“Tôi có thể đọc được mọi suy nghĩ đang diễn ra trong đầu của cậu.”

“Không thể nào! Thật hoang tưởng!”

Người đàn ông tức giận với trò đùa của ông già. Anh ta đưa mắt tìm một ghế trống để đổi chỗ ngồi. Thật vớ vẩn. Ngày đang đẹp mà vấp phải một kẻ thần kinh. Đúng là đang vui thì đứt dây đàn.

Tàu vẫn chạy với tốc độ cao, không một ghế nào còn trống và cũng không ai có ý định đổi chỗ ngồi. Một người lịch sự sẽ không làm phiền người khác vì những mong muốn nhỏ nhen. Người đàn ông miễn cưỡng ngồi lại chỗ bên cạnh ông già.

*

*        *

Tàu chui vào một đường hầm. Khung cảnh đang nắng chói chang bỗng trở nên tối sẫm mang theo một luồng không khí lạnh và mùi ẩm mốc. Người đàn ông rùng mình. Đèn trong khoang bật sáng.

Phía bên kia đường hầm sẽ là một vùng đất cằn. Không hẳn là sa mạc bởi đó là một vùng đá vôi u tịch. Không có cây cối. Chỉ có những loại cây gai. Không có sự sống nào của con người. Chỉ có những động vật hoang. Con người chỉ chọn sống ở những vùng đất màu mỡ nơi họ có thể trồng trọt và chăn nuôi. Những vùng đất cằn cỗi là thiên đường của động vật. Vì thế ở vùng đất mang nặng màu sắc của sự chết chóc chính là nơi tái sinh của những động vật đang dần tuyệt chủng.

“Cậu nhìn thấy hồn ma phải không?”

Ông già có khuôn mặt yên bình như mặt hồ với những đường nét khắc họa tinh tế, đôi mắt sáng quắc có thể nhìn xuyên thấu vạn vật hỏi người đàn ông. Cuối cùng thì người đàn ông không thể không bắt chuyện. Chuyến đi sẽ còn dài và người đàn ông hiểu mình sẽ còn phải ngồi cạnh người già điên dở này trong vài giờ tới và hình như người già đó sẽ tiếp tục đặt cho anh ta những câu hỏi chừng nào anh ta chưa trả lời ông.

Người đàn ông suy nghĩ và bắt đầu thấy bối rối. Làm thế nào ông già đó biết được suy nghĩ thầm kín của anh ta. Cũng có thể ông ta không điên, có thể ông ta là một nhà chiêm tinh học? Một nhà tâm lí học? Hoặc cũng có thể là một trong những bóng ma mà anh ta vẫn gặp nhưng không nhớ mặt.

Người đàn ông vẫn im lặng và chưa có ý định trả lời.

“Cậu tin vào những hồn ma?”

Quên đi những tiếng ồn ĩ của đám người trẻ tuổi và đám phụ nữ trung niên, quên cả những tiếng nhõng nhẽo của lũ trẻ và những cái “suỵt” kéo dài của những ông bố bà mẹ, và quên cả chuyện ông già là ai và vì sao ông ta biết được bí mật của anh, người đàn ông bị hút vào câu chuyện cùng ông già có vẻ khác lạ và dần trở nên cởi mở.

“Có thể rất hoang đường nhưng cháu tin một trong số ít những người chết vẫn tồn tại dưới dạng hồn ma.”

“Tại sao chỉ là một ít mà không phải là tất cả?”

“Vì nếu tất cả các linh hồn đều ở lại thì thế giới sẽ đầy rẫy những hồn ma. Mỗi hơi thở của chúng ta cũng có thể sẽ chạm vào họ.”

“Còn cơ thể của họ? Chúng biến thành gì sau khi linh hồn rời đi?”

“Cháu không biết họ đã trở thành gì sau đó.”

“Thành cát bụi.”

“…”

“Cơ thể của họ sẽ được tái sinh trong đất, thành cây, thành hoa, thành giun dế… Tôi tin rằng trong cơ thể của mỗi chúng ta đều có một phần của người đã khuất.”

“Nghĩa là họ không hoàn toàn biến mất?”

“Họ không bao giờ biến mất hoàn toàn.”

“Vậy còn linh hồn của họ?”

“Theo cậu thì chúng sẽ phiêu dạt ở đâu?”

“Một nơi nào đó trên trái đất nhưng ngoài tầm nhìn của con người?”

“Cậu tin thế sao? Nếu không thể nhìn thấy thì nghĩa là họ không tồn tại.”

“Ông có tin Đức Chúa không?”

“…”

“Bởi vì chưa ai trong chúng ta từng nhìn thấy Ngài. Ông hãy thử nhìn những con người ở trong khoang tàu này đi, tất cả bọn họ đều tin vào sự tồn tại của Ngài. Đó chính là lí do họ hành hương... Có nhiều thứ trên thế gian này tồn tại vô hình.”

“Đúng thế. Nghĩa là cậu nhìn thấy hồn ma?”

“Một vài lần.”

“Họ là ai?”

Người đàn ông lặng im suy ngẫm. Không gian trong tàu bỗng nhiên trở nên im ắng lạ thường. Ông già khép đôi mắt.

Từ chỗ ngồi của hai cậu bé và con búp bê, tiếng hát bật lên những âm thanh cao vút, xa thẳm và mơ hồ. Tiếng hát khe khẽ chỉ vừa đủ để người đàn ông nghe thấy. Đó cũng không hẳn là tiếng hát, chỉ là một điệu ngân nga không rõ lời. Rõ ràng đó không phải là giọng hát của những đứa trẻ. Người đàn ông nhìn con búp bê mở to đôi mắt xanh lơ với chiếc miệng hé mở.

“Có lẽ nào đó là tiếng hát của con búp bê?” Người đàn ông tự hỏi.

Minh họa: Nguyễn Đăng Phú

Tàu bò ra khỏi đường hầm và tiến về vùng đất cằn.

Trong khoang trở nên nhốn nháo. Đám phụ nữ trung niên hốt hoảng. Đám thanh niên dừng chơi bài tarot. Người lớn ôm chặt những đứa bé vào lòng. Đứa trẻ bé hơn ôm chặt con búp bê. Đôi mắt của con búp bê đã khép lại và tiếng hát cũng biến mất. Khoang tàu rung lắc.

Mọi cặp mắt đều đổ dồn về phía những ô cửa kính.

Phía bên ngoài khung cửa sổ tàu, vùng đất cằn mang màu sắc âm u đặc hữu của màu đá vôi đang chuyển sang màu vàng của bụi cát. Ánh sáng trong veo của buổi sáng lúc ở phía bên kia đường hầm trở nên vàng vọt. Các bụi cây gai cũng được phủ kín bởi một lớp bụi màu vàng, không gian mỗi lúc một mù mịt cộng thêm vẻ âm u của sắc đá khiến vùng đất cằn mang màu sắc của sự hủy diệt.

Khoang tàu chật tiếng la hét, những âm thanh lo lắng và bất lực. Lũ trẻ con khóc ré. Bất chợt lại vang lên thanh âm cao vút. Con búp bê khép chặt đôi mắt. Đám thanh niên co người trên ghế ngồi. Đám phụ nữ trung tuổi lầm rầm cầu nguyện. Những bàn tay lần tìm cây thập tự đeo trên cổ và trông chờ một sự cứu rỗi.

“Đây chính là thời khắc lí tưởng để chết,” người đàn ông nói với ông già.

“Cậu nghĩ rằng người ta cần chọn một thời khắc để chết?”

“Tại sao không? Chúng ta đã không thể chọn thời khắc để ra đời nhưng chúng ta có thể chọn thời khắc để chết. Chết vào lúc chưa cảm nhận được sự sợ hãi hay đau đớn chính là một cái chết vẹn toàn. Nếu chúng ta cứ nấn ná đợi thêm, rất có thể tình hình sẽ trở lên tồi tệ, tai nạn sẽ xảy ra và chúng ta sẽ phải chết trong đau đớn. Tại sao lại phải chọn một cái chết đau đớn thay vì chết đúng thời điểm để không phải đau đớn?”

Ông già không trả lời. Người đàn ông cũng không đợi câu trả lời. Có vẻ như anh ta đã mặc định giây phút cuối cùng cho cuộc đời của anh ta.

“Cậu không thắc mắc tại sao trời bên ngoài đổi màu?”

“Vì đây là vùng đất của những hồn ma.”

Ông già cười. Người đàn ông cười. Khoang tàu mỗi lúc một nhốn nháo. Tiếng rì rầm nguyện cầu như âm thanh của một bầy ong vừa vỡ tổ. Con búp bê mở tròn đôi mắt màu xanh lơ. Âm vực của tiếng hát mỗi lúc một xa xôi và hoang đường.

“Cậu có phân biệt rõ được đâu là hồn ma và người không?”

“Hồi đầu cháu không thể phân biệt đâu là hồn ma, đâu là người. Sự xuất hiện đột ngột của họ khiến cháu thấy bối rối. Nhưng cháu đã học được cách phân biệt rất nhanh. Những hồn ma có một đặc điểm rất dễ để nhận dạng, khuôn mặt của họ luôn thể hiện sự thanh thản, họ luôn lặng im trong mọi tình huống. Họ đến bên hay lướt qua ai đều với một nụ cười.”

Người đàn ông nói và nhắm đôi mắt hướng khuôn mặt ra phía cửa sổ. Anh ta nhớ về tai nạn cách đây không lâu. Người mẹ trẻ vì muốn cứu đứa con khỏi chiếc xe ô tô đang lao nhanh qua vạch dành cho người đi bộ, trong một tích tắc, đứa bé được người mẹ ném lên vỉa hè nhưng bản thân cô ta thì chết ngay tại chỗ. Sau hôm đó, đứa trẻ thường quay trở lại nơi xảy ra tai nạn tìm kiếm mẹ, khuôn mặt của đứa trẻ thể hiện một sự đau đớn và hoảng sợ. Có một điều mà đứa trẻ không biết được, trong khi nó nhìn về phía đường thì người mẹ trẻ đang đứng cạnh nó, đưa tay lên vuốt ve mái tóc của nó và nhìn nó bằng đôi mắt dịu dàng. Nét mặt thanh thản của cô ta không hề có chút gì hối hận về việc mình đã làm.

Khoang tàu rung chuyển mỗi lúc một mạnh. Tiếng khóc càng lúc càng nhiều, cả trẻ con và người lớn. Người đàn ông khép lại đôi mắt. Tiếng hát... Đúng tiếng hát đó. Tiếng hát của người mẹ trẻ.

“Cậu có nói chuyện được với người mẹ trẻ không?”

“Không, hồn ma không biết giao tiếp.”

“Cậu thương cảm cho cô ta?”

“Cháu thương cảm cho người còn sống. Hồn ma không giống con người. Họ không có sự day dứt của người còn sống.”

“Làm sao cậu biết họ không day dứt?”

“Vì nếu họ day dứt, họ sẽ tìm cách trở lại cuộc sống.”

Đến lượt ông già khép đôi mắt trầm ngâm. Tiếng hát vẫn cao vút nhưng thanh lượng dường như nhỏ dần rồi vụt tắt.

“Đó chẳng là một sự hỗn mang sao? Nếu tất cả những hồn ma còn nặng nợ dương gian đều tìm cách trở lại cuộc sống, họ sẽ tranh phần của những người chưa từng chết.”

“Vâng, sẽ rất hỗn mang nhưng ít nhất họ sẽ giúp những người chưa chết cởi bỏ những day dứt.”

“Cởi bỏ những day dứt của người chưa chết không phụ thuộc vào sự trở lại của những người đã khuất mà phụ thuộc vào chính bản thân của những người đang sống. Nếu họ biết rằng một ngày nào đó chính họ cũng sẽ trở thành hồn ma và sẽ gặp lại những người đã chết trước họ thì họ sẽ không bao giờ day dứt mà níu kéo những linh hồn. Họ sẽ để cho những linh hồn được tự do và thanh thản làm những điều mình muốn thay vì bắt những linh hồn phải đi theo họ, chứng kiến sự day dứt vì những người đã chết… Thực ra cơ thể của chúng ta chỉ là bộ trang phục mà chúng ta sẽ từ bỏ vào một ngày nào đó, tại sao chúng ta lại phải mất nhiều thời gian loay hoay tìm kiếm sự tha thứ của những linh hồn khác thay vì chăm sóc chính bộ quần áo đang mặc trên người?”

*

*         *

Không gian bên ngoài đặc quánh luồng khí vàng vọt. Tàu vẫn tiếp tục lao đi trong một vài tiếng thút thít còn sót lại. Đứa trẻ nhỏ hơn đưa lại con búp bê cho đứa lớn hơn. Đứa lớn hơn không còn hứng thú nhiều với con búp bê như lúc đầu, nó đặt con búp bê ngồi bên cạnh một cách lơ đễnh. Người đàn ông ngồi đối diện với con búp bê. Trong một tích tắc, hình như đôi mắt tròn xoe màu xanh lơ nhìn anh ta đầy ẩn ức. Tiếng hát lại ngân vang.

“Cậu định tặng ai bó hoa và hộp quà?”

“Cho những linh hồn ở Lourdes.”

“Cậu nên tặng nó cho những người còn sống. Những linh hồn, có ai biết họ thực sự đang ẩn nấp ở đâu để dâng lễ.”

“Không đúng. Bằng chứng là mỗi ngày có hàng nghìn người đổ về Lourdes và rất nhiều trong số họ đã trở nên thanh thản sau khi rời Lourdes. Họ đã nhận được sự an ủi từ những linh hồn chưa biến mất.”

“Đó là điều cậu mong muốn trong chuyến hành hương này? Vì thế cậu đã mua một món quà xa xỉ để tặng họ?”

“Không hẳn là như thế. Cháu tò mò muốn biết ở miền đất thánh, những linh hồn sống và cư xử với nhau như thế nào.”

“Vậy thì cậu cần gì đến vật phẩm, cậu chỉ cần đến và chứng kiến.”

“Linh hồn đã từng là con người, cứ đối đãi với họ như một người trong chúng ta sẽ đạt được điều mình mong muốn...”

*

*         *

Tàu vẫn lao với tốc độ chóng mặt. Khoang tàu không ngừng rung lắc. Có lẽ nào ngày tận thế đã tới? Tiếng hét. Tiếng khóc. Con tàu sẽ trật khỏi đường ray?

Con búp bê khép đôi mắt xanh lơ.

Bên ngoài những khung cửa kính, không gian vẫn đặc quánh một màu vàng âm u. Không khí bên trong khoang tàu trở nên nặng nề.

Người đàn ông khoanh tay trước ngực suy nghĩ. Đi hết vùng đất cằn này sẽ tới khu đồng bằng nơi có rất nhiều hồ nước. Không khí sẽ dịu hơn vì sau những hồ nước này chính là nơi con người sống, thành phố.

Tàu đã đi hết vùng đất cằn và tiến vào vùng đồng bằng. Con tàu rung lên bần bật như thể có một bàn tay quỷ quái nhấc nó lên rồi quăng ra xa. Trong một khoảnh khắc những tiếng gào bật lên như tiếng rú. Tàu dừng rung chuyển. Không gian bất ngờ lặng thinh.

Con búp bê mở tròn đôi mắt xanh lơ. Tiếng hát vút lên từ miền thăm thẳm và mơ hồ.

Mọi người mở tròn những cặp mắt và lắng nghe.

Không có điều gì đặc biệt xảy ra ngoài đám bụi vàng.

Có lẽ nhờ vào lời cầu nguyện của lữ khách trên tàu hay chính tiếng hát đã níu con tàu ở lại đường ray?

Người đàn ông ngồi lặng im, hai tay khoanh trước ngực. Khoang tàu ồn ĩ trở lại.

Những người trẻ tuổi tiếp tục ván bài tarot chơi dở trước khi tàu xuyên qua đường hầm. Những người phụ nữ trung niên tiếp tục nói chuyện và không quên cầm trong lòng bàn tay cây thánh giá. Những người khách độc hành tiếp tục đọc báo. Những đứa trẻ, sau vài giờ hưng phấn vì được đi tàu đã lăn ra ngủ một cách ngon lành trong vòng tay của người lớn. Hai đứa trẻ cùng con búp bê chụm đầu vào nhau, tiếng thở đều đều, mơ hồ.

Những hoang mang của vùng đất cằn dường như đã trở nên xa vời.

Họ sắp đến Lourdes, sắp được đặt chân lên vùng đất thánh, được thực hiện những lời cầu nguyện và chờ đợi những điều kì diệu mà những linh hồn ban phát cho họ sau cuộc hành hương.

“Cậu có hiểu tại sao người ta dễ quên những lo sợ khi nguy hiểm đã qua không?”

“…”

“Bởi vì con người mạnh mẽ hơn thánh nhân...”

Người già nhìn người đàn ông lúc này đã có vẻ mệt mỏi với chặng đường dài và rất nhiều câu hỏi trong chuyến đi.

*

*       *

Tàu hú còi báo hiệu vào sân ga kết thúc cuộc hành trình. Người đàn ông thở dài tìm từ nói lời chia tay với ông già kì quái nhưng có lẽ vì mải tìm kiếm những từ có nghĩa để nói nên khi người đàn ông nhìn sang ghế bên cạnh thì ông già đã biến mất từ khi nào. Không một dấu vết để lại. Tàu vẫn đang chạy.

Tàu giảm dần tốc độ trước khi dừng hẳn.

Các cửa ra tàu bắt đầu mở. Những gia đình có con nhỏ là những người đầu tiên đi ra, tiếp đến là đám phụ nữ trung niên, theo sau là đám người trẻ tuổi, cuối cùng là những người khuyết tật và những người đi đơn lẻ. Hành lí đã được những người khách mang đi hết trừ một bó hoa, hộp sô cô la được gói một cách trang trọng và một con búp bê có đôi mắt tròn xoe màu xanh lơ bị để quên trên ghế tàu.

Người soát vé tàu đi kiểm tra để không một hành khách nào ngủ quên còn sót lại trên tàu.

“Anh gì ơi!”

Người soát vé tàu cất giọng gọi người đàn ông mặc bộ veste màu xanh dương lịch lãm đang gục đầu xuống, hai tay khoanh trước ngực trong tư thế của một người ngủ ngồi, khuôn mặt thanh thản của một người vừa bước ra từ thánh đường...

Q. G

VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Cây thốt nốt quỳ trên núi Tưk-cot

Cây thốt nốt quỳ trên núi Tưk-cot

Tôi được nhiều lần sang Campuchia cùng các đội chuyên trách tìm kiếm, cất bốc, hồi hương hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hi sinh qua các thời kì chiến tranh... (HỒ KIÊN GIANG)

Nguyên mẫu trong hai truyện vừa đầu tay viết cho thiếu nhi của tôi

Nguyên mẫu trong hai truyện vừa đầu tay viết cho thiếu nhi của tôi

Khi viết cuốn Những tia nắng đầu tiên tôi đã hóa thân vào các em nhỏ học sinh lớp 6 của năm học 1969 - 1970 ở Hà Nội... (LÊ PHƯƠNG LIÊN)

Bà Minh của tôi

Bà Minh của tôi

Sống ở Hà Nội, trở thành một công dân có hộ khẩu đến nay đã hơn hai thập kỉ, nhưng chưa bao giờ tôi có cảm giác mình thuộc về Hà Nội... (ĐỖ BÍCH THÚY)

Đồng đội là nguyên mẫu trong các sáng tác của tôi

Đồng đội là nguyên mẫu trong các sáng tác của tôi

Có nhân vật chỉ là dáng dấp của nguyên mẫu, có nhân vật là nguyên mẫu đã sống và chiến đấu cùng tôi, suốt những năm tháng ở rừng... (VŨ NGỌC THƯ)