Nhà văn Nguyễn Chí Trung: Lí tưởng - nhân cách - sáng tạo

Chủ Nhật, 12/06/2016 17:13
logochuan - LTS: Đại tá, nhà văn Nguyễn Bảo, nguyên Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội là người có thời gian dài gắn bó với Thiếu tướng, nhà văn Nguyễn Chí Trung trong những năm chiến tranh ở địa bàn Quân khu V cũng như lưu giữ nhiều kỉ niệm đẹp về lão nhà văn. Văn nghệ Quân đội xin giới thiệu bài viết của nhà văn Nguyễn Bảo về người thủ trưởng, người anh, người đồng đội thân thiết mà ông có may mắn đồng hành gần như cả cuộc đời. 

Nguyễn Chí Trung là người sống hết lòng vì người khác, lấy niềm vui hạnh phúc của người khác làm niềm vui hạnh phúc cho mình. Hơn thế, anh còn là người phấn đấu, hi sinh suốt đời cho Đảng, cho đất nước, cho nhân dân. Có một cuốn sách dày 3.000 trang, trình bày đẹp, in đẹp, lẽ ra phải được trao giải “sách hay, sách đẹp” do anh Nguyễn Chí Trung lo liệu từ đầu đến cuối. Cuốn sách có tên: Văn nghệ sĩ Khu V: Lí tưởng, nhân cách, sáng tạo. Vâng, lí tưởng, nhân cách, sáng tạo là điều được anh coi trọng nhất trong cuộc đời mình.  
Thiếu tướng Nguyễn Chí Trung
Nhà văn Nguyễn Chí Trung. Ảnh: Phùng Phương Quý

1. Vào chiến trường, chúng tôi được điều về Ban tuyên huấn khu ủy Khu V. Mới chân ướt chân ráo đến, chúng tôi được anh Nguyên Ngọc từ Cục chính trị Quân khu sang thăm, nói chuyện với đoàn. Anh ngỏ ý sẽ bàn với ban lãnh đạo Tuyên huấn xin một vài người sang Khu ủy. Nhiều anh chị thích sang lắm, ngại là phải làm lính anh Nguyễn Chí Trung. Ở khu ủy, có người miêu tả anh Trung là người lúc nào cũng mặc quân phục, đeo kè kè súng ngắn bên hông. Là người riết ráo thực thi mệnh lệnh, riết ráo kiểm điểm phê bình và thi hành kỉ luật. Cái thứ hai ai cũng kể được về anh là sự hay quên.

Chuyện Nguyễn Chí Trung  quên chỉ còn bò lăn ra mà cười, nhất là vớ phải cây tiếu lâm hài hước dí dỏm Đặng Minh Phương, nguyên phụ trách báo Cờ giải phóng Trung Trung bộ, bạn thân thiết của Nguyễn Chí Trung. Về chuyện hay quên của Nguyễn Chí Trung đã nhiều người viết, nhiều người kể. Những chuyện ấy có khi  thực, có khi bịa  nhưng dù sao cũng góp vui, khuây khỏa nỗi nhọc nhằn khi đi cõng gạo, đi sản xuất, hoặc vơi đi sự hồi hộp căng thẳng trên đường vào trận. Cái tâm của người kể, người viết, hầu hết là tốt, là ưu ái. Anh đã giáo dục rèn luyện chúng tôi. Anh là tấm gương sáng  để chúng tôi noi theo.

Nhớ những ngày đầu, tôi, Nguyễn Hồng, Vũ Thị Hồng qua Ban văn học - Cục chính trị. Trời ơi! Sao mà hoang vắng thế. Nhà của Ban chỉ còn là cái nền đất. Người của Ban tuyệt không một ai ở nhà. Chúng tôi đành ở tạm chỗ Ban dân vận. Cái Ban văn học của anh Nguyên Ngọc, anh Nguyễn Chí Trung hồi đó là vậy. Quyết liệt vì sự tồn vong, vì chiến thắng của mỗi trận đánh. Những anh Lương Tử Miên, Nguyễn Phong Tạo, Ngân Vịnh, Nguyễn Bá Đắc, Nguyễn Trí Huân, Thái Bá Lợi… đi phát rẫy trồng sắn ở Công Tum. Anh Nguyên Ngọc đi với chỉ huy tiền phương Bộ tư lệnh Quân khu, còn Nguyễn Chí Trung luồn vào khu dồn Quảng Ngãi ăn ở trong đó, theo dõi địch và nắm tình hình tư tưởng sinh hoạt của dân. Anh Nguyễn Chí Trung về Ban sớm nhất, sau đó lần lượt mọi người lục tục từ các nơi kéo về. Họp và họp. Triển khai công việc.

Đang cuối mùa mưa, các đơn vị chuẩn bị cho các trận đánh. Phải gấp rút hoàn thành các công việc nội bộ để chia nhau về đơn vị. Cùng học khóa 4 bồi dưỡng viết văn của Hội nhà văn và cùng vào Khu V với tôi có Nguyễn Trí Huân. Lúc đó, anh đã có những sáng tác in sách, in báo. Anh vào trước chúng tôi ít ngày và với tư cách là người viết văn. Trong buổi họp đầu tiên, Bí thư chi bộ Nguyễn Chí Trung hỏi Nguyễn Trí Huân: “Anh vào đây để làm gì?”. “Để lấy tài liệu viết văn ạ…”. Ngay sau đó đến lượt tôi cũng với câu hỏi như vậy. “Để học, học dân, học bộ đội ạ.”, tôi nói còn trả lời khác sao được. Vừa mon men vào đây đã viết  được cái gì đâu. Còn  lâu mới dám trả lời như anh Huân. Ấy thế nhưng Nguyễn Chí Trung lại đánh giá tôi là người đúng còn Huân phải xem lại. Khốn nỗi, sau này Nguyễn Trí Huân cứ bảo tôi khôn. Thật ra khôn cái nỗi gì?

Trong Ban có hai người gắn với nhau như bóng với hình ấy là Nguyễn Chí Trung và Nguyên Ngọc. Thân nhau và phục nhau. Không ngày nào ở cơ quan hai người không đàm đạo, bàn bạc. Anh Trung đánh giá cao tầm tư tưởng của anh Nguyên Ngọc, phục về văn tài, chữ nghĩa. Bí thư Trung làm hết mọi sự vụ để Trưởng Ban có nhiều thời gian ngồi viết. Những sáng tác đầu tay của chúng tôi anh Trung đọc trước, nhận xét, đánh giá, góp ý sửa chữa. Tỉ mẩn tâm huyết, thận trọng. Vậy nhưng sau đó lại bảo đưa cho anh Ngọc đọc. Đôi khi có sự khác nhau trong hướng dẫn sửa bài, anh Trung bảo: Cứ theo ý anh Ngọc. Việc này rất hiếm xảy ra ở người khác, chỉ với anh Ngọc mà thôi.

Nguyên Ngọc quý và yêu Nguyễn Chí Trung ở công việc quản lí cơ quan và đóng góp với Quân khu trong lĩnh vực quân sự, chính trị. Thân thiết với Tư lệnh Quân khu Chu Huy Mân nên trước chiến dịch Nguyễn Chí Trung thường biết các trận đánh sắp nổ ra, đơn vị nào sẽ chủ công, hướng tấn công nào là chính, hướng tấn công nào là phụ, từ đó, họp cơ quan, phân mỗi người bám một đơn vị thích hợp. Chẳng hạn Nguyễn Trí Huân đi với Sư 3, Nguyễn Hồng đi với lữ đặc công, hướng Bình Định, Thái Bá Lợi, Nguyễn Phong Tạo đi với Sư 2, hướng Quảng Nam… Riêng tôi và Hồng Nguyễn Chí Trung lấy giấy của Cục chính trị  giới thiệu xuống tiểu đoàn làm trợ lí chính trị.

Với  sự  hiểu biết, từng trải và cả sự thông minh, quyết đoán, anh  dự kiến một số tình huống có thể xảy ra ở mỗi trận đánh để chúng tôi khỏi ngỡ ngàng. Cứ đụng đến những chuyện đánh địch, con người anh đầy say mê hào hứng. Giọng anh thanh thoát và linh hoat vô cùng. Chiến dịch nổ ra, anh đang ở đâu đó, tất yếu phải là chỗ  gay go nhất, ác liệt nhất, anh viết thư cho chúng tôi thăm hỏi động viên. Thư anh, tình cảm mà bốc lửa. Đến giờ, tôi vẫn còn nhớ nội dung những bức thư ấy. Đến giờ, tôi vẫn nhớ cảm giác bồi hồi xúc động trong lòng.

Anh có quan hệ mật thiết với Chính ủy Quân khu Võ Chí Công. Những nghị quyết của Khu ủy anh là người chấp bút. Anh không nói ra nhưng mọi người đều biết. Mỗi lần học nghị quyết, Thường vụ Khu ủy lại cử anh đi truyền đạt ở các đơn vị lớn. Cơ quan tôi nhỏ thôi nhưng sẽ được nghe anh phổ biến. Mỗi đận như thế, chúng tôi nói đùa: “Chúng ta sắp nghe nghị quyết của Nguyễn Chí Trung”.

Trước chiến dịch chúng tôi tranh thủ trồng rau, nuôi gà. Còn chút thời gian rảnh rỗi anh Nguyên Ngọc dạy tiếng Pháp cho mọi người. Có khi nhà Ban Văn học  vang lên những bài hát nhạc với phách nghe chừng sai cả. Ấy là lúc chúng tôi tập văn nghệ chuẩn bị đóng góp với hội diễn cục Chính trị. Nguyễn Chí Trung nghĩ ra rất nhiều việc cho Ban, cho từng người. Mỗi người được phân công phụ trách một việc cụ thể, trưởng ban sản xuất, trưởng ban văn nghệ, trưởng ban nuôi gà, trưởng ban nấu ăn… Chúng tôi nói vui: “Cơ quan mình anh nào cũng là cán bộ phụ trách”. Ôi! Một thời chiến tranh, cái Ban Văn học của chúng tôi sao mà vui, sao mà ấm áp, thấm đẫm tình người.

Nói về trận mạc, hiếm có người dũng mãnh bất chấp hiểm nguy như Nguyễn Chí Trung. Đi làm phái viên nhưng đụng việc anh quên khuấy chức trách. Ở tiểu đoàn, anh như chính trị viên, xuống đại đội anh vừa làm công tác tổ chức vừa động viên bộ đội, vào trận, anh là lính cầm súng đánh nhau. Anh say mê đánh giặc đến kì lạ. Năm 1974, anh đi với Sư đoàn 2 đánh Nông Sơn. Tôi theo sư 304 đánh Thượng Đức. Trận đánh ở Thượng Đức gặp khó, bộ đội thương vong nhiều phải dừng lại, tôi nghe tin có một nhà báo của Quân khu đang khuấy đảo ở cửa mở. Thì ra dứt điểm xong Nông Sơn, anh vù về Quân khu báo cáo tình hình rồi xin đi tiếp, đánh Thượng Đức.

Ở Thượng Đức, anh xuống ngay tiểu đoàn chủ công. Trong bom đạn mờ mịt, anh lắc đầu ái ngại cho bộ đội, rồi tức tốc tìm về chỉ huy trung đoàn, sư đoàn đề đạt ý kiến riêng của mình. Anh khẩn thiết đề nghị thay đổi vị trí mở rào. Mọi người hỏi anh là ai, anh bảo anh là phái viên quân sự của Bộ tư lệnh Quân khu. Lời nói của anh trở nên có sức nặng hơn. Anh lại lao xuống với tiểu đoàn, với các đại đội, đốc chiến.

Vậy nhưng bao lần xông pha, anh chỉ bị thương chứ không bị bom đạn quật ngã. Đi gùi gạo, chúng tôi đi hai ngày, anh chỉ đi một ngày hoặc ngày rưỡi. Đường dài, leo dốc bở hơi tai nhưng anh đi liền mạch, đi nhanh về nhanh vì cả núi công việc đang chờ ở nhà. Nhiều  việc người bình thường không thể làm nhưng vào tay Nguyễn Chí Trung thì ngon ơ! Anh là Bí thư Đảng  đoàn Hội Văn nghệ Giải phóng Trung Trung bộ, công việc bên Khu ủy lúc nào cũng bề bộn. Lụi bụi, sấp ngửa vì công việc nhưng không thấy anh kêu ca phàn nàn bao giờ.  

Đọc bài, góp ý sửa bản thảo, tổ chức trao đổi nghiệp vụ, tổ chức đi theo bộ đội đánh giặc, mười hai năm liền anh là chiến sĩ thi đua. Huân huy chương bên khu ủy bên quân khu cấp cho anh nhiều vô kể. Ở Thượng Đức, buổi lễ mừng công, Bộ Tư lệnh cho người tìm anh để trao huân chương nhưng không thấy anh đâu. Dứt trận đánh, anh vội vã băng đèo lội suối về Quân khu báo cáo tình hình. Anh là con người của công việc, có cảm giác rời công việc anh không còn là anh nữa.

 
NGUYENCHITRUNG1
Nhà văn Nguyễn Chí Trung tặng tiểu thuyết 'Tiếng khóc của nàng Út' cho độc giả huyện Tây Trà, Quảng Ngãi - Ảnh: Trần Đăng
 
2. Cách mạng toàn thắng, một chương mới mở ra cho dân tộc. Vinh quang, sum họp, nhưng khó khăn vây bủa. Một số  đơn vị bộ đội giải thể, một số đi làm kinh tế. Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng Trung Trung bộ của Ban Tuyên huấn khu ủy kết thúc. Người về địa phương, người ra Trung ương. Tạp chí còn nhưng công việc đang thay đổi, Nguyễn Chí Trung đứng ngồi không yên: “Có một đội ngũ văn nghệ sĩ trải qua chiến tranh trưởng thành trong chiến tranh, quý vô chừng. Không biết giữ, phát triển thì thật là phí. Bản thân mình cũng thấy có tội”. Anh hay phàn nàn thế.

Với cương vị Bí thư Đảng đoàn văn nghệ, có quan hệ tốt với các thủ trưởng cấp trên lại giỏi thuyết phục, Nguyễn Chí Trung đã đề đạt một phương án: Chuyển một số văn nghệ sĩ từ biên chế của Khu ủy sang Quân đội. Gồm các anh Dương Hương Ly, Thanh Quế, Nguyễn Khắc Phục, Cao Duy Thảo, Trần Vũ Mai, Ngô Thế Oanh… Nhân sự bên Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng không những giữ nguyên mà còn tuyển thêm Thanh Thảo, Nguyễn Đăng Kỳ, Trung Trung Đỉnh… Về dân sự, tuyển thêm Nguyễn Công Khế, Ngô Thị Kim Cúc. Hai người này chỉ ở một thời gian ngắn, sau đó chuyển đi làm báo. Lực lượng này tập trung ở hai nhà 1B Ba Đình và 10 Lý Tự Trọng.

Cùng với đó, một cơ quan mới ra đời “Trại sáng tác Văn học Quân khu V”. Nguyễn Chí Trung làm trại trưởng, nhà văn Phan Tứ làm trại phó. Sau chiến tranh, nhiều nhà văn, nhà thơ, muốn có thời gian quây tụ lại bàn bạc, động viên nhau viết về đề tài còn nóng rãy, Nguyễn Chí Trung đã đáp ứng được nguyện vọng đó. Trại kéo dài được năm năm. Các nhà văn  nhà thơ chủ yếu chỉ sáng tác. Nguồn kinh phí quân đội cấp có hạn, Nguyễn Chí Trung đã thành lập một “Ban hành chính” đắc lực phục vụ cho cơ quan.

Tư lệnh Chu Huy Mân đến thăm trại đã ngạc nhiên kêu lên: “Đội quân tăng gia, chăn nuôi của Trung thật cừ, phải phổ biến kinh nghiệm cho Quân khu đấy nhé”. Thịt gà, trứng gà thường xuyên bổ sung thêm cho suất ăn còn khiêm tốn của bộ đội. Rau xanh chủ yếu là của nhà trồng. Đất trong vườn, ngoài rào mọc đủ thứ: rau lang, rau muống, rau cải, bí bầu… mùa nào thứ ấy, xanh mướt. Những năm tháng đó, trại đã đón tiếp không biết bao nhiêu khách văn của Trung ương, của địa phương, tươm tất, nhờ có sự tự túc này. Nhưng điều ấy sẽ thành vô nghĩa nếu thành quả sáng tác văn học không xứng tầm với công sức tiền của đã bỏ ra.

 
NGUYENCHITRUNG
Nhà văn Nguyễn Chí Trung gặp lại "nhân vật" của mình - Ảnh: Trần Đăng

3. Có thể nói cả nước thời điểm sau chiến tranh và cả đến bây giờ chưa có một mô hình trại sáng tác nào như trại sáng tác Quân khu V. Trại kết thúc đã cấp một nguồn cán bộ làm công tác báo chí, văn học nghệ thuật khá phong phú cho Trung ương và các địa phương. Trại đã góp vào thành quả chung của nền văn học Việt Nam  những tác phẩm văn học đáng kể. Nhà văn Nguyễn Trí Huân nhiều năm liền là Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Anh cũng là người nhiều khóa liền là ủy viên Ban chấp hành, là Phó chủ tịch Hội Nhà Văn Việt Nam. Nhà thơ Thanh Quế, nguyên ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Tổng biên tập Tạp chí Văn học nghệ thuật Đà Nẵng. Nhà thơ Thanh Thảo, nguyên Tổng biên tập Tạp chí Văn học nghệ thuật Khánh Hòa. Nhà thơ Dương Hương Ly, nguyên Tổng biên tập Tạp chí Văn học nghệ thuật Lâm Đồng. Nhà văn Trung Trung Đỉnh, Giám đốc nhà xuất bản Hội Nhà văn. Nhà thơ Ngô Thế Oanh, Phó Tổng biên tập Tạp chí Thơ của Hội nhà văn…

Điều quan trọng hơn, những thành viên của trại trong 5 năm ấy và những năm sau đó đã cho xuất bản những tác phẩm văn học sáng giá. Suốt những năm ấy, Nguyễn Chí Trung hầu như không viết được chữ nào. Anh miệt mài đọc tất cả bản thảo của trại viên, góp ý sửa chữa từng câu từng chữ. Có những tập trường ca như  “Ở làng Phước Hậu’’ của Trần Vũ Mai, anh thuộc còn hơn tác giả. Tiểu thuyết “Vàng Crum” của Nguyễn Đăng Kỳ trang bản thảo nào cũng có gạch xóa của ngòi bút anh, những thêm bớt anh ghi đặc kín bên lề. Đọc, tổ chức, trao đổi giúp nhau. Đương nhiên, công việc mà Cục chính trị và Quân khu giao cho anh chồng chất, thời gian đâu để anh ngồi sáng tác.

Cách đây vài năm, Hội Nhà văn việt Nam kết hợp với Quân khu V định gặp lại các thành viên của trại, tổng kết để rút những bài học quý. Mọi việc đã hòm hòm nhưng rồi soát xét nội dung, Nguyễn Chí Trung thấy không đạt yêu cầu nên đề nghị thôi. Tiếc thế! Thời gian ở trại đôi lần tôi  theo Nguyễn Chí Trung đi một vài nơi. Một số bí mật về gia đình anh được hé lộ.

Đi Quảng Nam, anh dẫn chúng tôi về huyện Hòa Vang. Bước chân dến làng xã nào anh cũng sà vào được, hăm hở chân tình như nơi đó chính là nơi sinh ra mình. Dân làng xúm đến vồn vã hỏi han, kể chuyện. Anh là người hay quên có tiếng nhưng những dịp thế này thì nhiều người ngả mũ kính phục trí nhớ của anh. Anh kể tên từng người, nhắc đến đặc điểm tính cách của họ, thậm chí nhớ nhà ở trước đây của mỗi người, cạnh cổng có cây gì, cách đồn địch bao nhiêu buổi đường. Những chuyện buồn vui của chính họ từ thuở nào, họ đã quên nhưng Nguyễn Chí Trung vẫn nhớ. Anh nhắc lại  khiến họ sững sờ. Ai cũng muốn kéo Nguyễn Chí Trung về nhà mình. Được mọi người ở quê yêu quý đến vậy thật là hạnh phúc.

Một lần khác, đến Quảng Ngãi, anh dẫn chúng tôi vào Tịnh Minh. Dấu chân anh ghi mênh mông trên những làng quê một thời chiến tranh. Nơi nào cũng đầy ắp kỉ niệm. Mới đến đầu làng, nhác thấy bóng dáng, mọi người đã nhận ra anh và la tướng lên: “Ông Trung lụt. Ông Trung lụt về bà con ơi!...”. Thì ra trận lụt khủng khiếp của miền trung năm 1964, Nguyễn Chí Trung đã dùng xuồng mải miết cứu dân bị nước cuốn trôi. Cứu được họ khỏi chết ngập, nhưng họ cũng khó sống vì không có cái ăn. Nguyễn Chí Trung đã nhân danh cách mạng buộc các nhà giàu có trong xã phải xuất kho cứu đói. Anh đã trực tiếp nấu cơm vắt thành nắm đi phân phát cho từng gia đình bị nạn. Gặp lại anh, dù đã mấy chục năm trôi qua, ai mà không rưng  rưng, ai mà không muốn ôm choàng lấy anh để tỏ lòng biết ơn trời bể.

Chia tay với bà con Tịnh Minh, anh để rơi những giọt nước mắt. Anh  than thở: “Không có thời gian ngủ lại một đêm với bà con Tịnh Minh. Tội chớ! Đây cũng là quê hương của mình đó...”. Ở Vạn Giã, Khánh Hòa, anh có một bà dì quý anh còn hơn con đẻ. Lần đó, bà dẫn Nguyễn Chí Trung vào nghĩa trang Đầm Bò. Anh chưa biết mộ cha ở chỗ nào. Khu nghĩa trang nhiều mộ xây công phu. Riêng mộ bố anh rất sơ sài. Anh khóc. Bà dì phân bua: “Cực lắm, bom đạn liên miên, họ hàng anh em mỗi người mỗi ngả. Giữ được cái mộ để con cháu về thắp hương là phúc lắm rồi”.

Ở Bình Thuận, anh có một cô em gái. Trông  già sụm. Khi kể về chuyện này, anh sụt sịt: “Gia đình li tán, nó sống trôi dạt, vật vờ. Thương  lắm. Còn có ngày gặp lại đã là may...”. Anh đã đưa cháu Hà, con của em gái ra Đà Nẵng nuôi ăn học, coi như đứa con yêu của mình. Nào ngờ, ra trường chưa được bao lâu, bị tai nạn giao thông qua đời.

Ở Sài Gòn, mối quan hệ của anh chằng chịt hơn. Đất nước thông thương, anh dẫn chúng tôi đến nhà người em trai. Lúc đó Nguyễn Chí Trung là đại tá nhà văn, người đầy chiến tích cách mạng nhưng em trai lại là viên sĩ quan phía bên kia. Nghe nói gặp em lần đầu anh đã mắng mỏ một trận nên thân. Sau này, không nghe  anh nhắc về đứa em trai của mình. Chúng tôi cũng không biết hiện thời gia đình người em đó ra sao. Anh còn có một người cháu là ca sĩ nổi tiếng ở Sài Gòn. Thanh Lan. Cô cháu nghe tin Nguyễn Chí Trung đến gặp vừa vui vừa sợ hết hồn. Thế đấy. Anh nói rằng quê anh ở Khánh Hòa, Bình Thuận, hay ở Sài Gòn thì cũng nghi ngờ. Ấy là chưa kể thời đi tập kết ngoài Bắc anh có những vùng quê gắn bó như nơi cha sinh, mẹ đẻ. Anh căm thằng Mĩ vô chừng.  “Chiến tranh. Bao nhiêu thảm họa cho dân, cho nước do thằng Mĩ cả. Gia đình mình cũng gánh đủ”, anh nói.

Nhà văn Nguyên Ngọc có em trai thời chiến tranh cũng là lính ở phía bên kia. Sự phân hóa này suốt một thời bom đạn, không ảnh hưởng nhiều đến tư tưởng tình cảm các anh nhưng lại bùng nổ trong những ngày cả dân tộc sum họp, đoàn tụ.
ct3 1
Nhà văn Nguyễn Chí Trung nhận Huy hiệu 65 năm tuổi Đảng tại Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Ảnh: Nguyễn Xuân Thủy

4. Năm 1979, Nguyễn Chí Trung được điều về Tạp chí  Văn nghệ Quân đội. Cùng là Phó tổng biên tập với anh là các nhà văn Nguyễn Trọng Oánh, Xuân Thiều. Ba ông phó, không có tổng mà tính cách lại hết sức khác nhau, những trục trặc xảy ra là điều khó tránh. Nguyễn Trọng Oánh hiền lành, thích yên bình. Xuân Thiều muốn tung tẩy thử sức mình trên lĩnh vực quản lí sáng tác. Nguyễn Chí Trung muốn mở hết tầm kích cho Văn nghệ Quân đội với nhiều cải cách táo bạo. Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh đã nhìn thấy sự bất ổn liền cử Nguyễn Chí Trung đi học lớp chính trị cao cấp trong quân đội, đồng thời điều nhà văn Dũng Hà về làm Tổng biên tập.

Hết lớp học, thủ trưởng Nguyễn Nam Khánh nói với Nguyễn Chí Trung: “Thôi, đừng về Tạp chí làm gì. Bộ đội tình nguyện ở Campuchia đang cần một người như Trung”. Chúng tôi hỏi: “Thiếu gì người, tại sao thủ trưởng cứ phải điều anh Trung?”. Thủ trưởng Nguyễn Nam Khánh giải thích: “Chúng mình cùng chiến trường Khu 5 với nhau, ra ngoài này cùng làm trong một cơ quan, có chuyện gì không ổn họ lại đổ lên đầu mình. Bảo mình địa phương chủ nghĩa”.

Không vui vẻ gì nhưng Nguyễn Chí Trung nhanh chóng khoác ba lô lên đường. Anh được bổ nhiệm là Phó chủ nhiệm Chính trị cơ quan đại diện Bộ Quốc phòng hướng Tây Nam. Tất nhiên, nhập cuộc, anh lại say mê như ngày nào. Anh như người không ra khỏi chiến tranh. Lại đắm say với phương án tác chiến. Lại ngập chìm với chiến thuật thủ đoạn đánh địch. Lại công tác tư tưởng cho bộ đội, lại cầm súng vào trận, dũng mãnh và quyết chiến như những ngày đánh Mĩ. 

Ở Campuchia , một người mà Nguyễn Chí Trung mến phục, đó là thủ trưởng Lê Khả Phiêu. Khi quân tình nguyện rút hết về nước ông được bổ nhiệm là Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, sau đó giữ trọng trách Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam. Người thủ trưởng ấy đã không quên người giúp mình rất tận tụy ở chiến trường Campuchia, ông đã chọn Nguyễn Chí Trung làm trợ lí cho mình. Có nhiều ý kiến khác nhau trong vai trò trợ lí của Nguyễn Chí Trung nhưng có thể khẳng định: Anh là người đam mê công việc, hết lòng vì công việc.  

Lần đó, tôi theo đoàn của Tổng  bí thư đi chống lụt ở Quảng Nam. Buổi cơm trưa,  không thấy Nguyễn Chí Trung đâu, mọi người ngơ ngác nhìn nhau. Trong đoàn có người muốn đi tìm. Ông Phiêu bảo: “Kệ. Chắc lại ghé vào cái phòng nào đó ngồi viết đấy mà”. Cho đến buổi cơm chiều mới thấy Nguyễn Chí Trung lộ ra, cười khà: “Mình được dồn hai suất vào một bữa đó hỉ”. Nguyễn Chí Trung là thế, nhịn ăn, thức suốt đêm cho công việc là chuyện bình thường. Các thủ trưởng trước của anh đều biết vậy. Thương anh nhưng lại coi đó như một sự đương nhiên. Không hề nghĩ đến việc đãi ngộ, cất nhắc. Thủ trưởng Lê Khả Phiêu khác. Nguyễn Chí Trung được phong hàm tướng và Tổng bí thư Lê Khả Phiêu còn nói: “Lẽ ra việc đó phải làm từ lâu”.

5. Đến nay, Nguyễn Chí Trung vẫn lủi thủi một thân một mình. Chúng tôi biết anh có những mối tình khá lãng mạn và sâu thẳm. Hồi tập kết ngoài Bắc, anh yêu một cô gái Hà Nội nhan sắc. Vào chiến trường, yêu đắm đuối  một diễn viên múa xinh đẹp. Đã gần đến hôn nhân thì cô ra Bắc chữa bệnh rồi lấy chồng. Ở Campuchia anh có tình cảm với cô Tổng biên tập báo Nhân dân. Hai người yêu nhau quấn quýt nhưng vẫn không thành. Rồi cô kĩ sư hóa học ở Hà Nội. Yêu mê mẩn, ngẩn ngơ, nhưng kết quả  không đến đâu… Tình yêu cũng cần thời gian. Một người lúc nào cũng lấn bấn, bận rộn công viêc như anh, khó thay.

Về hưu, tưởng sẽ có thời gian cho mình nhưng anh chợt nhân ra: “Tuổi lớn rồi, tính chi chuyện đó nữa”. Nhưng anh đã có một tình yêu khác. Tình yêu với văn học nghệ thuật. Anh viết không nhiều nhưng sớm nổi tiếng với truyện ngắn “Bức thư Làng Mực”. Những năm ở chiến trường, do nhu cầu phải có bài cho Tạp chí , anh viết một vài truyện ngắn và một số bài kí. Anh chỉ dành hai ba hôm để viết. Ngày cuối cùng khi bản thảo tạp chí phải đưa xuống nhà in mới xong. Dẫu thế, từng câu từng chữ của anh được cân nhắc cẩn trọng. Bao giờ anh cũng chú ý đến chất văn trong sáng tác của mình. Bản thảo trước khi đưa in, anh đọc cho chúng tôi nghe, nhờ nhận xét, góp ý. Truyện và kí của anh có chất hào hùng nhưng vẫn mềm mại uyển chuyển. Chất lí tưởng quán xuyến từ đầu đến cuối. Mạch văn, bay bổng, trữ tình.

Tôi nhớ mãi lần đầu quân ta tấn công Thượng Đức bất thành, phải dừng lại kiểm điểm rút kinh nghiêm. Đêm đó, đài tiếng nói Việt Nam đọc bút kí Khi dòng sông ra đến cửa của anh. Giọng đọc trong trẻo của cô phát thanh viên vút lên niềm lạc quan, báo hiệu ngày toàn thắng đang đến. Nhưng để có giây phút vỡ òa đó, quân dân ta còn phải vượt qua muôn trùng khó khăn. Bài viết đầu tháng 4 năm 1974, có tính hùng biện khái quát toàn chiến trường mà lại  như viết cho mọi sư đang xảy ra ở Thượng Đức vậy. Thú thực, vào cái giây phút ấy, tôi đang hoang mang, nghe xong bài kí bỗng bình tâm trở lại. Sáng ra, tôi khoác ba lô từ Trung đoàn xuống tiểu đoàn chủ công -  nơi Nguyễn Chí Trung đang hướng dẫn bộ đội dùng bộc phá liên tục mở cửa.

Những bài viết tương tự sau này được tập hợp trong các tập kí và truyện ngắn: Đà Nẵng; Bức thư Làng Mực; Hương cau; Khi dòng sông ra đến cửa. Nếu phải tìm những nhà văn chắt lọc câu chữ, chọn những sáng tác rời vào tập, kĩ lưỡng, khó tính, nhất định Nguyễn Chí Trung đươc ghi vào danh sách đó. Nhưng nghiệp văn của anh thực sự thăng hoa  khi đã nghỉ công tác. Về hưu, anh còn vô khối công việc phải làm như làm sách, ảnh về đoàn Văn công Quân khu V một thời anh là trưởng đoàn; đọc, chọn bài in tập “Văn nghệ sĩ Liên khu 5. Lí tưởng- nhân cách- sáng tạo”…

Về nghỉ anh cũng có nhiều thời gian hơn cho sáng tác. Tiểu thuyết Tiếng khóc của Nàng Út dồn nén tư tưởng, tình cảm bức xúc của nhà văn về một thời khốc liệt của chiến tranh. Yêu nhân dân vô cùng, gắn bó máu thịt với những vùng đất từng trải, ngòi bút Nguyễn Chí Trung đã có sự  bứt phá, vượt lên chính mình. Anh đã chọn đúng giọng điệu phù hợp với chất liệu cuộc sống thời đó. Chất văn hóa được anh nghiên cứu rất kì công và đưa vào tác phẩm nhuần nhuyễn. Có vốn sống dồi dào nhưng không lạm dụng. Anh cất công đi lại những nơi miêu tả trong tác phẩm, để lấy lại cảm xúc. Hồn vía hiện thực cuộc sống cùng với bút pháp lãng mạn của anh đã tạo nên một Tiếng khóc của Nàng Út có sức lôi cuốn người đọc.

Tiểu thuyết đầu tay cũng là tác phẩm đem về cho anh ba giải thưởng: Giải thưởng Nhà nước, giải thưởng ASEAN, giải thưởng Bộ Quốc phòng. Những ngày cuối cùng trong cuộc đời anh đang viết về Campuchia, một dân tộc anh vô cùng yêu thương, một chiến trường đẫm máu và nước mắt anh đã gắn bó mấy chục năm liền. Anh viết với tình yêu bao la và sâu thẳm. Nhưng mọi thứ đã dừng lại. Nguyễn Chí Trung đã ra đi ở tuổi 87. Anh đã ra đi với lí tưởng anh theo đuổi, nhân cách anh có và sự sáng tạo bằng nhiệt huyết tận đáy lòng. Những trang bản thảo ấy sẽ được anh tiếp tục hoàn thiện ở một thế giới khác, nơi ấy, hi vọng sẽ không có chiến tranh với những khổ đau và bất công xã hội, nơi ấy chỉ có an hòa, để anh có thể dốc lòng mình cho từng con chữ.  

Nhà văn
NGUYỄN BẢO

                                                                                               
 
VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Bóng thầm mà rực rỡ trên mỗi trang văn

Bóng thầm mà rực rỡ trên mỗi trang văn

Sau những giờ lên lớp về lí thuyết, các ông chia nhau mỗi người kèm mấy học viên sáng tác... (CHÂU LA VIỆT) 

Anh Tựu trong "Vượt lũ"

Anh Tựu trong "Vượt lũ"

Anh Tựu của chúng tôi, ngoài đời là Thầy thuốc Ưu tú, tiến sĩ, dược sĩ chuyên khoa II Trần Tựu... (KIỀU BÍCH HẬU)

Giọt nước mắt mang hình vết thương

Giọt nước mắt mang hình vết thương

Cứ chiều chiều bà xay bột, tối tráng bánh rồi phơi, phơi đến khô thì mang ra chợ, vừa quạt than nướng vừa bán... (VŨ THANH LỊCH)

Tiếng chim bắt cô trói cột

Tiếng chim bắt cô trói cột

Chẳng biết bắt đầu từ đâu, nhưng trong kí ức của một đứa trẻ đôi lần lên núi kiếm củi, bứt lá rừng về lót chuồng cho lợn cho bò, thi thoảng gặp bụi sim chín ửng… thì núi sau lưng làng tôi được bắt đầu từ mé sông... (HỒ MINH TÂM)