Một số cách tân nghệ thuật của truyện ngắn Việt Nam sau 1975 viết về chiến tranh

Thứ Bảy, 26/04/2025 10:55

. NGUYỄN THỊ PHƯƠNG THẢO

 

Từ sau năm 1975, đặc biệt là từ sau 1986 đến nay truyện ngắn Việt Nam đa dạng về phong cách, hình thức cho thấy những nỗ lực cách tân của các thế hệ nhà văn đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Trong dòng mạch đó, truyện ngắn Việt Nam về chiến tranh cũng được sản sinh trong bầu không khí đổi mới mạnh mẽ của văn học, thể hiện góc nhìn từ bối cảnh mới của nhà văn về chiến tranh. Đề tài chiến tranh được khai thác khi đất nước đã giải phóng, thống nhất và đổi mới với những kế thừa và cách tân thi pháp so với thời gian trước đem đến cho độc giả những góc nhìn, kiến giải đa dạng về chiến tranh.

Bài viết sử dụng cách tiếp cận thi pháp học, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích tổng hợp… để khảo sát hơn 100 truyện ngắn viết về chiến tranh từ sau năm 1975. Trên cơ sở đó, bài viết tập trung làm rõ một số đổi mới trong thi pháp nghệ thuật truyện ngắn về đề tài chiến tranh tạo nên diện mạo mới mẻ và hấp dẫn của truyện ngắn về đề tài này.

1. Đổi mới về ngôi kể và điểm nhìn trần thuật

Nếu như trước đây, trần thuật từ ngôi thứ ba với người kể chuyện toàn tri là phổ biến thì trong văn học từ sau năm 1975 có xu hướng người kể chuyện ở ngôi thứ ba mang sắc thái mới và người kể chuyện ở ngôi thứ nhất xuất hiện với tần suất lớn và ngôi kể có sự thay đổi linh hoạt theo điểm nhìn. Vì vậy, trong truyện ngắn, nhà văn nỗ lực tạo ra điểm trần thuật đa dạng, sáng tạo. Từ đó có thể đem đến cho độc giả một cái nhìn mới. Khảo sát hơn 100 truyện ngắn về chiến tranh, chúng tôi nhận thấy có sự kế thừa và cách tân trên hai loại hình trần thuật này gắn với sự thay đổi trong kiến tạo điểm nhìn. Chắc hẳn đây cũng là đặc trưng mang ngụ ý của nhà văn khi khai thác đề tài này.

Người kể chuyện ngôi thứ ba với điểm nhìn bên ngoài

Trong truyện ngắn Việt Nam đương đại nói chung, hình thức kể chuyện từ ngôi thứ ba vẫn được sử dụng phổ biến. Riêng trong truyện ngắn về chiến tranh, lối kể này chiếm tỉ lệ khá lớn. Tuy nhiên, cách tổ chức điểm nhìn trần thuật truyền thống đã có sự kế thừa sáng tạo. Ưu điểm của hình thức này được phát huy như bao quát nhiều vấn đề hiện thực rộng lớn, thể hiện quan điểm, tư tưởng, cách giải quyết vấn đề mang dấu ấn phong cách nhà văn một cách trực tiếp qua những bình luận, phân tích, phát ngôn. Độc giả có thể tin tưởng người kể chuyện “biết tuốt”, tiếp cận với thông điệp chủ đích của nhà văn bằng con đường ngắn nhất qua sự “dẫn dụ” của người kể chuyện. Bên cạnh đó, dấu ấn chủ quan của người kể chuyện cũng được “tiết chế” hơn trong truyện ngắn truyền thống. Thường người kể chuyện hoá thân vào nhân vật để bộc lộ, ít khi đưa ra những bình luận, ý kiến trực quan. Với điểm nhìn zero (theo cách định danh của Genette) tức là điểm nhìn “toàn tri” - không có điểm nhìn cố định. Người kể chuyện đứng bên ngoài sự kiện nhưng lại có tầm bao quát và toàn năng, tự do vô giới hạn. Chính vì vậy có thể đem lại khả năng kể, miêu tả rộng rãi đời sống và cả thế giới tinh thần của con người.

Truyện Truyền thuyết về Quán Tiên - Xuân Thiều được kể từ ngôi thứ ba. Người kể chuyện tựa vào điểm nhìn của những người lính lái xe Trường Sơn. Qua đó, những sự kiện trong cuộc sống, chiến đấu của Mùi, Lan, Phượng và những người lính hiện lên với những gian khó niềm vui, hy sinh, đặc biệt là nỗi ẩn ức của các cô gái và một nhân vật kỳ ảo là con khỉ đen ức có chùm lông màu trắng. Kết truyện là cánh lái xe nhắc về cô với những câu hỏi chưa có lời đáp, nửa tin nửa ngờ về chi tiết mang màu sắc huyền thoại. Người kể chuyện am tường cả những câu chuyện “tế nhị”, khó nói, tâm tư tình cảm của nhân vật. Qua đó dẫn dắt người đọc đến với những điều vừa đời thường vừa dị biệt trong chiến tranh không dễ cắt nghĩa và giải thích. Cũng phải kể đến nhiều tác phẩm sử dụng thành công ngôi kể thứ ba “toàn tri” như: Xóm sở Mỹ (Thu Trân), Thời tiết của ký ức (Bảo Ninh), Mã Đại Câu - người quét chợ Mường Cang (Ma Văn Kháng), Khô Chănđara (Đỗ Viết Nghiệm), Đêm làng Trọng Nhân (Sương Nguyệt Minh)...

Cùng với những lợi thế trên, hạn chế là người kể chuyện ở đây đóng vai trò bố trí các diễn biến của truyện, dù ít dù nhiều áp đặt cảm xúc, tư tưởng cá nhân qua việc thuật lại truyện, thường là kết thúc đóng, làm giảm tính khách quan và độ mở cho độc giả tưởng tượng.

Nét mới của truyện ngắn đương đại là xu hướng hạn chế “quyền năng” của người kể chuyện, sử dụng điểm nhìn bên ngoài. Vẫn là người kể chuyện ngôi thứ ba nhưng được “làm mới” bằng cách kể khách quan, lạnh lùng, lãnh đạm. Người kể chuyện hầu như không tham gia vào câu chuyện mà chỉ làm nhiệm vụ trần thuật, để nhân vật hiện lên qua hành động, đối thoại. Vì vậy tạo cảm giác “các sự kiện dường như được kể bởi chính nó”, khó nhận thấy thái độ của người kể chuyện qua nội dung trần thuật. Vì vậy, người kể chuyện có một khoảng cách nhất định với toàn bộ diễn biến câu chuyện. Với truyện ngắn về chiến tranh cũng vậy.

Bến trần gian của Lưu Sơn Minh được kể bởi người kể khách quan giấu mặt. Bắt đầu bằng sự kiện hồn ma anh lính tên Lăng về đến bến sông trong đêm tối và không vượt qua được, phải đợi đò. Thuỳ - người yêu của anh trước khi đi bộ đội ra bến sông chèo thuyền, bế tắc với cuộc sống gia đình hiện tại, hồn ma nhìn thấy cô và lên thuyền mà cô không biết. Bà mẹ Lăng ra bến sông, nhìn thấy và nói chuyện với anh, khuyên anh về cõi của mình. Người kể chuyện miêu tả lại câu chuyện như quay một thước phim, không có dấu hiệu nào biểu hiện thái độ, tình cảm, hoàn toàn giữ khoảng cách với chuyện được kể. Chính vì vậy, quyền giải nghĩa tác phẩm tuỳ vào độc giả, tạo nên màu sắc hiện đại cho truyện. Một số truyện ngắn khác cũng được trần thuật từ kiểu người kể chuyện này như: Loay xoay thuyền thúng (Lê Nguyên Ngữ), Đất ngàn năm yên tĩnh (Tô Đức Chiêu)…

Người kể chuyện ngôi thứ nhất với điểm nhìn bên trong

Trong truyện ngắn đương đại Việt Nam, sử dụng phương thức kể chuyện từ ngôi thứ nhất là sự kế thừa truyền thống và phù hợp với xu hướng thể hiện con người cá nhân, thể hiện cá tính sáng tạo trong không khí của thời đại mới. Người kể chuyện ngôi thứ nhất (NKC NT1) còn gọi là “người kể tường minh” hay “người kể lộ diện” kể về những gì mình đã trải qua - cái tôi trải nghiệm hoặc chứng kiến - cái tôi nhân chứng. Với đề tài chiến tranh, theo khảo sát của chúng tôi, NKC NT1 trong truyện ngắn chiếm tỉ lệ vượt trội hơn cả so với trần thuật từ các ngôi khác. Gắn với ngôi kể này là điểm nhìn hướng nội, điểm nhìn bên trong nhằm bộc lộ thế giới nội tâm đầy bề bộn, trắc ẩn trong và sau chiến tranh. Đó chắc hẳn là sự lựa chọn không ngẫu nhiên của nhà văn bởi loại hình kể chuyện này tạo độ tin cậy, gần gũi giữa độc giả với câu chuyện được kể. Không còn bó hẹp tồn tại chủ yếu ở thể loại ký trong văn học truyền thống, NKC NT1 trong truyện ngắn thể hiện xu hướng cá thể hoá trong phương thức trần thuật. Với đặc trưng của thể loại hư cấu, NKC NT1 không phải lúc nào cũng đáng tin cậy mà còn tạo ra sự hoài nghi có chủ ý trong cách kể lại chuyện. Điều đó cũng đem lại màu sắc mới cho truyện ngắn.

Trong truyện ngắn sau 1975 về chiến tranh, NKC NT1 là cái tôi - trải nghiệm và cái tôi - nhân chứng chiếm tỉ lệ gần như ngang bằng. Chiến tranh vốn là trạng thái hiện thực “đặc biệt”, “bất thường”, lối kể từ ngôi thứ nhất lấy điểm nhìn từ cái tôi cá nhân, kể câu chuyện của thế hệ mình và mình chứng kiến là hình thức phổ biến. Điều đó dường như để lại dấu ấn tác giả một cách chủ tâm trong tác phẩm rõ nét hơn. Đây cũng là kiểu trần thuật phổ biến của văn xuôi Việt Nam đương đại. Đó là hệ quả của sự đổi mới tư duy nghệ thuật, hướng đến con người cá nhân và đề cao vai trò của chủ thể sáng tạo. Với lối trần thuật từ ngôi thứ nhất, người kể chuyện chi phối tổ chức tác phẩm và miêu tả nhân vật khác từ điểm nhìn của mình. Theo lý thuyết của G. Genette, khảo sát truyện ngắn về chiến tranh đương đại với dạng thức trần thuật từ ngôi thứ nhất với điểm nhìn bên trong có thể chia thành hai loại: người kể chuyện kể tất cả mọi chuyện (người kể chuyện cố định) và nhiều người kể chuyện cùng kể lại một câu chuyện duy nhất (người kể chuyện đa thức).

Lựa chọn NKC NT1 là nhân vật chính - người kể chuyện kể tất cả mọi chuyện từ đầu đến cuối. Lối kể thường sử dụng nhiều độc thoại, nhật ký dẫn dắt độc giả theo những tâm tư, trải nghiệm của mình và qua đó khắc hoạ chân dung, cuộc đời nhân vật. Người kể chuyện trùng khít với nhân vật, “tôi” tự kể chuyện của mình và những gì liên quan đến mình. Qua đó, quan điểm sáng tạo, thái độ của tác giả thể hiện linh hoạt trong phát ngôn của người kể chuyện. Với đề tài chiến tranh, nhà văn không chỉ phản ánh mà suy nghĩ, trăn trở về hiện thực. Lựa chọn ngôi kể này cũng thể hiện cảm thức của một lớp nhà văn bước ra từ chiến tranh. Họ không chỉ là nguyên mẫu, đối tượng mà muốn viết về chiến tranh với vốn sống, ký ức tươi mới, sống động của mình trước một đề tài không thể thờ ơ. Tâm thế chung của nhà văn khi đứng trước đề tài này là truyền tới độc giả những câu chuyện về cái bi hùng, niềm vui chiến thắng và “nỗi buồn chiến tranh” mà NKC NT1 kể chuyện của mình là một hình thức kể đắc dụng và gần gũi.

Chiều vô danh của Hoàng Dân được kể bởi nhân vật “tôi”. Câu chuyện về cuộc đời nhân vật trải qua ngày tháng cuối cùng khốc liệt của chiến tranh với những đồng đội dũng cảm hi sinh trước ngày chiến thắng. Những cảm xúc, ám ảnh, chiêm nghiệm của “tôi” làm hiện lên chân dung, tính cách nhân vật và các chiến hữu. Còn người kể chuyện xưng “tôi” trong Một quãng đời và cả cuộc đời của Phạm Duy Tương lại kể lại diễn biến hành động, tâm trạng của người lính sau chiến tranh trước việc tha thứ hay không cho người vợ đã mắc sai lầm khi xa chồng. Rất nhiều truyện ngắn về chiến tranh khác như: Người vãi linh hồn (Vũ Bão), Bí ẩn của làn nước (Bảo Ninh), Tiếng rừng (Hiền Phương), Người đàn bà sau chiến tranh (Từ Nguyên Tĩnh), Thím Thoải (Hạnh Lê), Con gà rừng (Đoàn Lê), Chăn tha (Trần Thùy Mai), Em bé câm trước đền Ăng ko (Lê Lựu)... đều được kể lại từ người kể chuyện cố định. Nhiều truyện tạo cảm giác đồng nhất giữa người kể chuyện và tác giả. Tuy nhiên, dấu ấn chân thực của nhà văn đậm nhạt khác nhau trong mỗi tác phẩm. Với đặc trưng của thể loại hư cấu, sự thật trải nghiệm của cá nhân thường không còn giữ nguyên vẹn khi nhập vào người kể chuyện xưng “tôi”. Không giống như NKC NT1 trong thể ký, trong truyện ngắn sau 1975 về chiến tranh, người kể chuyện kiểu này vừa cuốn hút độc giả vào trường nhìn của mình vừa có một khoảng cách nhất định.

Để tránh sự đơn điệu, văn xuôi đương đại nói chung và truyện ngắn về chiến tranh nói riêng đã có sự làm mới phương thức trần thuật từ ngôi thứ nhất. Trong nhiều tác phẩm, có nhiều vai ở ngôi thứ nhất kể từ những điểm nhìn khác nhau tạo nên kiểu người kể chuyện đa thức. Điểm nhìn bên trong của “tôi” nhiều khi hạn chế vì có thể biết rõ về mình nhưng không tường tận được chuyện của người khác với những bí ẩn trong thế giới nội tâm. Do vậy, tác giả tổ chức nhiều cái tôi để kể chuyện. Mỗi cái tôi này mang cái nhìn “hạn tri” nên cùng một câu chuyện nhưng mỗi chủ thể trần thuật kể một cách riêng. Qua lời của nhiều người kể bổ sung, xen kẽ, điểm nhìn di động từ cái “tôi” này sang cái “tôi” khác. Nhà văn cùng một lúc đặt vào nhiều nhân vật điểm nhìn trần thuật. Điều đó tạo nên tính đa thanh, phức điệu, phá vỡ tính đơn thanh của văn bản. Đề tài chiến tranh được nhìn từ nhiều phía.

Trong Hồn cát của Nguyễn Hiệp có bốn nhân vật xưng tôi: người thợ ảnh xưng tôi kể về công việc và cuộc gặp gỡ với ông khách già. Người khách xưng tôi kể về câu chuyện năm xưa liên quan đến cha con già Kha ở đồi cát này. Trong câu chuyện, già Kha xưng tôi kể về cô con gái câm xinh đẹp và những kẻ gây phiền nhiễu cuộc sống của hai cha con. Gần kết chuyện, cô gái câm xuất hiện trong ảo giác xưng tôi trò chuyện và giải đáp những câu hỏi của anh thợ ảnh. Đan xen trong mạch chuyện là những suy nghĩ, chiêm nghiệm của nhân vật tôi - thợ ảnh, tôi - ông khách. Cùng một câu chuyện về những con người ở đồi cát nhưng mỗi người góp một góc nhìn (cái nhìn này có sự thay đổi theo thời gian và không gian) làm nổi bật thông điệp về con người trong và sau chiến tranh với nhiều day dứt, cả những thiếu sót, sai lầm.

Có thể thấy một số lượng không nhỏ truyện ngắn được tổ chức trần thuật kiểu ngôi thứ nhất điểm nhìn đa thức này như: Chú lùn thứ bảy (Lưu Sơn Minh), Tiếng vĩ cầm của quân xâm lăng (Bảo Ninh), Tình yêu một đời (Nguyễn Ngọc Chụ), Tiếng chuông trôi trên sông (Vũ Hồng), Với biển (Đặng Văn Nhưng), Sự sống còn lại (Trung Trung Đỉnh), Chị dâu (Hoàng Tuấn)... Cách tổ chức điểm nhìn này tạo môi trường thể hiện tinh thần đối thoại và tự đối thoại cởi mở, dân chủ trong tác phẩm. Những cái “tôi” luôn vận động để nhận thức và tự ý thức. Do đó, “tôi” không chỉ kể chuyện (miêu tả điều nhìn và nghe thấy) mà còn kể tâm trạng (kể về điều cảm thấy, suy nghĩ). Đây cũng được coi là lối kể - suy ngẫm, đối thoại. Đặt độc giả trước câu chuyện mà “tôi” kể về những số phận “đặc biệt” trong sự tác động của chiến tranh, lối trần thuật này vừa tạo lòng tin về một câu chuyện xác thực vừa tạo sự hoài nghi, tranh biện, gợi mở theo trạng thái của người kể chuyện. Đó là nét mới khi sử dụng hình thức trần thuật này.

Trong Độ không của lối viết, Barthes Roland cho rằng trần thuật từ ngôi thứ nhất xưng tôi là “một phương thức biểu đạt độc đáo mập mờ quy về cả tác giả, cả về người kể chuyện và cả về nhân vật”. Theo đó, so với vai “nó”, vai “tôi” ít tính nước đôi hơn nên lối kể chuyện từ ngôi thứ nhất xưng tôi với điểm nhìn bên trong đáp ứng được “khát vọng giãi bày” của nhân vật người kể chuyện (phần nào đó cũng là của cái tôi nhà văn). Có lẽ, đó cũng là một cách giải thích cho số lượng lớn truyện ngắn về chiến tranh thời kỳ này được các nhà văn chọn lối kể chuyện từ ngôi thứ nhất.

Bên cạnh hai kiểu trần thuật trên, trong văn học Việt Nam đương đại nói chung và truyện ngắn về chiến tranh nói riêng có xu hướng trần thuật phối hợp các ngôi kể, di động điểm nhìn. Điều này tạo ra nhiều tiếng nói, giọng điệu. Việc đổi ngôi có thể tạo nên sự luân phiên giữa điểm nhìn tác giả và nhân vật, giữa điểm nhìn bên ngoài và bên trong, dịch chuyển điểm nhìn từ nhân vật này sang nhân vật khác. Từ đó góp phần làm đa dạng phương thức trần thuật, hạn chế tính chủ quan, đơn điệu của lối kể truyền thống.

Đó là sự luân phiên giữa người kể chuyện ngôi thứ ba và người kể chuyện ngôi thứ nhất như trong các truyện: Có một đêm như thế (Phạm Thị Minh Thư), Ngủ giữa hoa sen (Nguyễn Anh Vũ), Họ đã trở thành đàn ông (Phạm Ngọc Tiến), Truyện rất khó viết (Nguyễn Đông Thức), Biển Hồ yên tĩnh (Mai Ngữ)... Sự thay đổi ngôi kể và dịch chuyển điểm nhìn theo nhiều chủ thể trần thuật khác nhau đem lại cho truyện sự bất ngờ, đa âm, gợi mở đối thoại trước đề tài chiến tranh. Việc tổ chức nhiều điểm nhìn trần thuật còn tạo nên hình tượng người kể chuyện “không đáng tin cậy”, tin hay không, hiểu như thế nào là quyền của độc giả.

Nếu truyện ngắn trước 1975 thiên về trần thuật ở ngôi thứ ba với một điềm nhìn xuyên suốt, chú trọng yếu tố cốt truyện hơn là cách kể chuyện thì sau 1975, thiên về lối trần thuật từ ngôi thứ nhất với điểm nhìn bên trong. Kiểu trần thuật từ ngôi thứ ba cũng được làm mới, mang lại cho truyện màu sắc hiện đại. Vì vậy, truyện ngắn về chiến tranh tạo nên được sức hấp dẫn mới, người đọc cũng được mời gọi đồng sáng tạo, lựa chọn cho mình một điểm nhìn phù hợp.

2. Đổi mới về tổ chức cốt truyện

Có thể thấy, xu hướng chính của truyện ngắn những năm 1930 - 1975 là có cốt truyện chặt chẽ, có đầu cuối rõ ràng với nhiều sự kiện, biến cố, tình huống căng thẳng, khai thác xung đột trong phát triển tính cách nhân vật. Cốt truyện vẫn đóng vai trò quan trọng để làm nổi bật những vấn đề lớn trong chiến tranh, tính cách phi thường trong những hoàn cảnh khốc liệt. Từ sau 1975, đặc biệt là từ sau thời kỳ Đổi mới, mô hình truyện ngắn truyền thống có xu hướng co giãn, nới lỏng, phân rã cốt truyện với những biến tấu đa dạng. Sử dụng kiểu cốt truyện chặt chẽ nhưng có sự đan xen nhiều mạch truyện và lối kết cấu đa dạng hơn, tình huống nhiều khi không phải là thời điểm gay cấn mà chỉ là khoảnh khắc gợi suy ngẫm... Kiểu cốt truyện triển khai theo mạch cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật được sử dụng phổ biến. Đây là bước tiếp nối kiểu truyện lãng mạn đã đạt đến đỉnh cao ở đầu thế kỷ XX và ảnh hưởng của văn học “dòng ý thức” của phương Tây. Đó cũng là phương cách hữu hiệu để chạm đến đáy sâu tâm hồn con người trong và sau chiến tranh. Khi xây dựng cốt truyện, chi tiết và đoạn kết được nhà văn chú trọng. Cốt truyện nhiều khi được ghép từ các mảnh sự kiện, kết thúc mở đòi hỏi và kích thích tư duy “đồng sáng tạo” của độc giả.

Đầu, tiên, mô hình cốt truyện sự kiện-hành động trong văn học hiện đại nói chung và truyện ngắn sau 1975 về chiến tranh nói riêng không còn nguyên trạng mà có sự giản lược, tuỳ vào dụng ý của tác giả, thường là còn lại ba thành phần: trạng thái ban đầu - biến cố - trạng thái kết thúc. Trong truyện ngắn về chiến tranh đương đại, dù truyện triển khai trên sự kiện, hành động là chủ yếu nhưng vẫn đan xen trong đó những chi tiết, tình tiết mới lạ, bất ngờ, biến cố liên tục tạo độ căng cho truyện, trình tự các sự kiện có thể bị đảo lộn chứ không nhất thiết trình bày theo trật tự trước sau như trong truyện truyền thống. Đồng thời, nhà văn sử dụng các yếu tố kỳ ảo, giấc mơ, tâm linh đan xen, kiểu truyện “giả thể loại” để biểu hiện cảm nhận của con người hiện đại về đời sống trong và sau chiến tranh. Điều đó cho thấy, bên cạnh tiếp thu hình thức cốt truyện truyền thống, nhà văn đã nỗ lực cách tân, sáng tạo theo tâm thế hiện đại để diễn trình cốt truyện tạo nên sức hấp dẫn mới mẻ. Loại hình cốt truyện này chiếm một tỉ lệ đáng kể trong truyện ngắn sau 1975 viết về chiến tranh. Tuy nhiên, khác với truyện ngắn giai đoạn trước, những diễn biến tinh vi của đời sống tâm lí nhân vật trước mỗi sự kiện, biến cố cũng đã được đan cài vào tạo nên chất xúc tác cho diễn biến của truyện.

Kẻ sát nhân lương thiện của Lại Văn Long là cốt truyện tiêu biểu. Trạng thái ban đầu là: hắn sống phiêu bạt cùng mẹ kiếm sống và tìm bố. Sau 1975 hai mẹ con trong diện đi xây dựng vùng kinh tế mới. Sự kiện thắt nút là khi bố hắn trở về sau 18 năm chiến đấu, đón hai mẹ con về thị xã và được ở trong căn biệt thự của thiếu tá ngụy Lâm Quang Sang (đời ông hắn đi ở đợ cho bố của Sang). Truyện được đẩy lên cao trào khi 11 năm sau gia đình Sang là Việt kiều về đòi lại căn nhà, bố mẹ hắn được cho ra ở gian chuồng ngựa, cắt cỏ cho ngựa kiếm tiền. Hắn đi công nhân ở Liên Xô về thất nghiệp. Từng bậc mâu thuẫn được chồng chất lên đến đỉnh điểm là việc hắn bị con nhà chủ nhà lăng mạ, hành hung. Đến lúc mở nút, giải quyết vấn đề bằng hành động bất ngờ, quyết liệt của hắn: lấy súng bắn chết một số kẻ trong đám đang ăn uống vui vẻ, viên đạn cuối cùng dành cho bức chân dung trên tường. Kết thúc mở khi hắn trả lời trước toà: “Tự giải phóng mình khỏi số phận đê hèn là một việc thiện, ít nhất cho chính mình... Con tôi nếu có sẽ không bao giờ phải đi cắt cỏ ngựa thuê cho các thế hệ dòng họ Lâm như ba đời trước đó”. Cốt truyện bộc lộ một cái nhìn thẳng thắn về những vấn đề tồn dư sau chiến tranh.

Trong nhiều truyện ngắn khác như Mười ba bến nước (Sương Nguyệt Minh), Hai mươi năm sau (Hồ Phương), Người đàn bà sau chiến tranh (Từ Nguyên Tĩnh), Chuyện xưa kết đi, được chưa? (Bảo Ninh), Loay xoay thuyền thúng (Lê Nguyên Ngữ), Anh ấy không đơn độc (Văn Lê), Đường qua phum Tha khây (Khuất Quang Thụy)... cốt truyện thể hiện cách nhìn, giải quyết vấn đề ở những ngày sắp kết thúc kháng chiến và sau đó, trong chiến tranh biên giới với sự căng thẳng, quyết liệt, dứt khoát. Cốt truyện giàu kịch tính gắn với cái nhìn đặt sự vật hiện tượng trong thế đối lập tốt - xấu, cao cả - thấp hèn, thiện - ác... theo diễn trình vận động của nhân vật.

Thứ hai, cốt truyện tâm lí được sử dụng một cách hiệu quả và có những sáng tạo mới mẻ trong truyện ngắn. Sau năm 1975, kiểu cốt truyện này chiếm tỉ lệ lớn trong truyện ngắn, hướng đến thế giới hiện thực khó định hình và nắm bắt trong tâm hồn con người. Nhiều nhà văn đã chọn cách “khái quát vi mô - xuất phát từ những số phận cá nhân, những biến động phức tạp của tinh thần, tâm lí con người trước tác động của chiến tranh”. Hạt nhân cốt lõi là quá trình diễn biến tâm lí, những vận động trong tinh thần và tương ứng với nó là quá trình nhận thức và tự nhận thức lại của nhân vật. Kiến tạo mạch truyện theo nguyên tắc này đã tạo thành một bộ phận truyện ngắn đặc sắc, giúp độc giả cảm nhận về cuộc sống nhiều hơn. Sự kiện được nhắc đến trong truyện không nhiều nhưng từ những chiếc “mắc treo” ấy, tác giả đã làm một hành trình xâm nhập, giãi bày những trạng huống cảm xúc diễn ra trong tâm hồn nhân vật trước hoàn cảnh, khám phá con người ở chiều sâu vô thức và tâm linh của con người trong và sau chiến tranh.

Bức chân dung của người đàn bà lạ (Chu Lai) chỉ có sự kiện nhỏ là cuộc gặp của hoạ sĩ Lưu An với một người phụ nữ trung niên với yêu cầu vẽ chân dung và trả thù lao hậu hĩnh. Còn lại hầu hết câu chuyện là những suy nghĩ, hoài nghi, tự vấn, hồi tưởng, dằn vặt, nản lòng, kỳ lạ, hối thúc... xung quanh việc làm sao vẽ được chân dung người phụ nữ qua tấm ảnh bà ta để lại. Những diễn biến chằng chéo, phức tạp trong tâm trạng diễn ra trong suốt mấy tháng cho đến khi ký ức ông hiện về cô giao liên ngày nào. Sau khi tìm được cảm xúc và linh hồn, tác phẩm hiện lên: “Vẫn là cái ánh nhìn dìu dịu buồn ấy nhưng lại lom dom cháy những đốm sáng của sự vị tha nhân hậu, của sự sắt son chung thủy bên trong”. Lúc đó, tâm trạng hoạ sĩ chuyển sang bồn chồn, hồi hộp đợi người phụ nữ hẹn đến lấy tranh. Sự kiện kết truyện là cuộc gặp với cô con gái mang bức thư của người đàn bà khiến ông bàng hoàng, khổ đau lẫn hạnh phúc không nói nên lời. Kiểu cốt truyện này khá phổ biến, có thể gặp trong nhiều truyện khác như: Hai người đàn bà xóm Trại (Nguyễn Quang Thiều), Dòng sông trinh nữ (Sương Nguyệt Minh), Mỗi tháng có một rằm (Lê Hoài Lương), Thảm cỏ trên trời (Ngô Thị Kim Cúc), Tiếng rừng (Hiền Phương), Những giấc mơ có thực (Vũ Thị Hồng), Trên mái nhà người phụ nữ của Dạ Ngân...

Cốt truyện vận động làm sáng rõ diễn biến ngầm ẩn trong tâm hồn, con người trong truyện mang chiều sâu của sự nếm trải, giằng xé, trăn trở, nỗi đau, cô đơn... Vì vậy, cuộc sống bề bộn với những diễn biến trong tình cảm của từng con người khi đứng trước những mất mát, đau khổ và hạnh phúc sau chiến tranh được tái hiện tạo nên những dư ba. Tiếp thu kiểu cốt truyện trữ tình, nhà văn đương đại vận dụng một cách nhuần nhuyễn và tinh tế trong cái nhìn hướng về số phận cá nhân con người sau chiến tranh, cốt truyện dần “dịch chuyển sâu hơn vào thế giới nội tâm”, chạm đến vùng ký ức, ẩn ức của con người.

Trong truyện ngắn về chiến tranh những năm gần đây còn sử dụng cốt truyện dòng ý thức. Đây được coi là một bước phát triển của cốt truyện tâm lý - là loại cốt truyện đặc trưng của tự sự hiện đại thế kỷ XX. Trong văn học thế kỉ XX, khi nhà văn quan niệm mỗi con người không chỉ gồm những yếu tố ngoại hình mà còn chứa đựng thế giới nội tâm sâu kín. Nhiệm vụ của văn chương là phản ánh, tái hiện, đánh giá thế giới bên trong con người. Khi đó thủ pháp độc thoại nội tâm được sử dụng một cách hữu hiệu, phát huy tối đa khả năng, sức mạnh của nó. Điểm tựa của cốt truyện là thế giới nội tâm với những ẩn ức, suy nghĩ, quá khứ, thực tại chồng chéo.

Trong truyện ngắn về chiến tranh, loại cốt truyện này chưa phải đã đạt đến mức “điển hình” nhưng đã xuất hiện một số tác giả sử dụng như một phương tiện tìm kiếm những nhận thức mới mẻ, sâu sắc về thế giới bên trong của con người. Nếu truyện ngắn truyền thống chặt chẽ với hệ thống sự kiện là cốt lõi của tác phẩm thì ở cốt truyện kiểu này, các sự kiện biến cố trở nên rời rạc, dàn trải, không có đột biến bất ngờ, không theo logic nhân quả. Vì vậy mà nhân vật thường ít hành động mà chìm vào dòng suy nghĩ, hồi ức, vô thức... bộc lộ những chiêm nghiệm của con người về chiến tranh và cuộc đời.

Trong Sám hối của Phùng Văn Khai là triền miên dòng ký ức, cảm xúc của “anh” - tên lính da trắng về căn hầm trong chiến tranh - nơi anh ta cho xả súng vào người vừa tha cho mình. Đan xen sau đó là suy nghĩ về đứa con không lành lặn, những thùng chất độc da cam, sự sai lầm và lừa dối của chiến tranh, những chiến hữu tự vẫn, tình yêu dang dở. Hình ảnh cậu bé ở căn hầm trở lại vụt sáng, về sự trừng phạt và mất lòng tin vào Chúa. Mạch truyện lại chuyển sang phía người lính cộng sản trong căn hầm với những suy tư, dự định và chưa kịp sửa sai lầm của mình thì lửa đạn đã trùm căn hầm. Hình ảnh đã “giày vò anh, hay nó đã báo thù anh, bóp nghẹt phần đời còn lại của anh”. Khó có thể xâu chuỗi và kể lại rành mạch cốt truyện vì nó được đan xen liên tục những ký ức, hình ảnh, cảm xúc ám ảnh nhân vật. Qua đó thể hiện cái nhìn chiến tranh đầy khốc liệt, phi lí, phản nhân văn. Có thể gặp kiểu cốt truyện này trong những tác phẩm như Bến đàn bà (Nguyễn Mạnh Hùng), Hoài vọng (Văn Xương)…

Dù chiếm số lượng khá khiêm tốn trong truyện ngắn đương đại về chiến tranh, kiểu cốt truyện này sử dụng “dòng ý thức” để kiến tạo cốt truyện, kết nối các mảng sự kiện, ghép lại thành câu chuyện về số phận con người trong và sau chiến tranh. Độc giả có thể dễ dàng cảm nhận sự “đứt gãy”, “pha trộn” của các mảnh ký ức, tâm trạng của nhân vật hơn là theo dõi diễn biến sự kiện như trong kiểu truyện ngắn truyền thống. Vì vậy, đây cũng là một phương thức hữu hiệu tái hiện trạng huống tinh thần con người đầy bộn bề, phức tạp trong trường ảnh hưởng của chiến tranh.

Thứ ba, một loại cốt truyện nữa tuy xuất hiện không nhiều nhưng cũng là thể nghiệm mới mẻ của nhà văn khi viết về chiến tranh, đó là cốt truyện mang yếu tố hậu hiện đại. Dấu hiệu bị mất đi tính liền mạch trong cốt truyện truyền thống có thể thấy trong Chú lùn thứ bảy, Bến trần gian (Lưu Sơn Minh). Thủ pháp cắt dán điện ảnh, pha trộn thể loại văn học - sân khấu được Doãn Dũng sử dụng hiệu quả trong Âm thanh của kí ức. Thực tế, dư luận vẫn còn chưa ngã ngũ về việc có hay không văn học hậu hiện đại nên việc sử dụng những yếu tố hậu hiện đại trong sáng tác còn khá dè dặt. Với đề tài chiến tranh cũng vậy, sự thể nghiệm ít ỏi đó ít cũng là một cách nhìn “lạ hoá” khi viết về đề tài quen thuộc này.

Kiểu cốt truyện dòng ý thức hoặc cốt truyện hậu hiện đại thể hiện quan niệm thế giới là sự pha trộn của nhiều yếu tố đan xen, khó nắm bắt. Xu hướng “nới lỏng”, “phân rã”, “làm mờ” cốt truyện cũng thể hiện một cái nhìn về cuộc sống và con người trong và sau chiến tranh. Quan niệm mới trong văn học đương đại hướng đến một “hiện thực không hoàn kết”, không thể biết trước nên, truyện ngắn về chiến tranh cũng có xu hướng chuyển đổi từ cách kết thúc đóng sang kết thúc mở và không có hậu, tạo ra sự bất ngờ, để lại nhiều dư âm, gợi mở, sự ám ảnh sâu sắc với người đọc, buộc họ phải suy ngẫm, chiêm nghiệm và lựa chọn.

Nhiều truyện ngắn về chiến tranh chọn lối kết này như: Những giấc mơ có thực (Vũ Thị Hồng), Chuyện ở Pai-lin (Dạ Ngân), Mảnh vỡ của đàn ông (Hồ Anh Thái), Người đàn bà sau chiến tranh (Từ Nguyên Tĩnh), Tình yêu một đời (Nguyễn Ngọc Chụ), Trên mái nhà người phụ nữ (Dạ Ngân), Sóng gió Ô Cấp (Trịnh Sơn)... Đây cũng là cách thể hiện quan niệm nhân sinh về nhiều vấn đề đặt ra và để ngỏ, chưa thể tìm lời đáp trong cuộc sống sau chiến tranh.

Cùng với xu hướng chung của văn học đổi mới, truyện ngắn về chiến tranh đã tạo được sức hấp dẫn với người đọc không phụ thuộc vào việc xây dựng một cốt truyện ly kỳ, chất đầy sự kiện, biến cố và kịch tính mà bằng những cốt truyện nhẹ nhàng, đơn giản nhưng có sức nặng trong khai thác những vấn đề của tâm lí, nhân sinh được tổ chức với những thủ pháp nghệ thuật tinh tế mang cá tính sáng tạo và phong cách nhà văn. Việc tổ chức truyện ngắn với cốt truyện, đoạn kết một cách sáng tạo, độc đáo đem lại nhiều cách cảm nhận về đề tài chiến tranh.

3. Đổi mới trong tạo dựng tình huống truyện

Sau 1975, các tình huống truyện không chỉ tái hiện chiến tranh mà còn tái hiện những hệ quả của nó trong thời bình. Những câu chuyện về người lính trở về quê hương, những xung đột giữa quá khứ và hiện tại, những ký ức đau thương đeo bám, tất cả đều tạo nên các tình huống mang tính thời sự và nhân văn sâu sắc.

Cảm hứng bi kịch xuất hiện đậm đặc trong tác phẩm viết về chiến tranh, vì vậy tình huống bi kịch xuất hiện rất nhiều trong tác phẩm. Nhà nghiên cứu Lê Dục Tú trong bài Truyện ngắn đương đại về đề tài chiến tranh - những đổi mới trong tư duy thể loại nhận định: “Chính trong sự thể hiện những bi kịch của con người thời hậu chiến, đặc biệt là sự thể hiện con người cô đơn, ở truyện ngắn, các tác giả đã đi sâu thể hiện và đào bới sâu vào bản thể con người, khám phá ra những góc khuất, những miền vô thức và cả những đòi hỏi bản năng của con người tự nhiên”.

Kiểu tình huống này bao hàm các xung đột đời sống mang tính kịch cao, sự va chạm giữa các nhân vật trở nên gay gắt và bị dồn nén trong một không gian, thời gian và hành động theo quy tắc của kịch. Tình huống bi kịch được tạo dựng để khai thác chiều sâu tính cách, tâm hồn con người trước bất hạnh của số phận. Ở đó mang những xung đột giữa khát vọng và hoàn cảnh, giữa thiện và ác và những ước muốn chân chính của con người bị sự nghiệt ngã của hoàn cảnh chi phối. Dạng tình huống này thường gặp trong cốt truyện hành động, sự kiện - tâm lý.

Tình huống bi kịch cho thấy sự bất lực của con người trước hoàn cảnh, sự khốc liệt của chiến tranh chi phối, ảnh hưởng dai dẳng đến cuộc đời biết bao con người góp phần thể hiện cái nhìn mới mẻ của các nhà văn về chiến tranh khi lịch sử đã sang trang mới. Điều đó bắt nguồn từ góc nhìn đa diện, đa chiều, tinh tế, nhạy cảm của tác giả về cuộc đời. Con người được nhìn từ góc độ số phận cá nhân với những hạnh phúc và bất hạnh, được và mất, cao cả và thấp hèn, khao khát và tuyệt vọng, sức mạnh và sự bất lực, bóng tối và ánh sáng… Có thể kể đến nhiều truyện ngắn được xây dựng với kiểu tình huống này như: Cỏ lau (Nguyễn Minh Châu), Ba người trên sân ga (Hữu Phương), Thím Hoóng (Ma Văn Kháng), Em bé câm trước đền Angko (Lê Lựu), Tình yêu một đời (Nguyễn Ngọc Chụ), Tiếng chuông trôi trên sông (Vũ Hồng), Người sau cùng trở về làng Vọc (Hoàng Phương Nhâm), Vết chim trời (Nguyễn Ngọc Tư), Những bóng người trên đất (Trịnh Sơn)... Nếu chiến tranh là một thử thách lớn với con người thì đứng trước bi kịch trong cuộc sống đời thường cũng là hoàn cảnh để con người khẳng định tinh thần đấu tranh vượt lên số phận để hay để lại chiêm nghiệm về những giới hạn không thể vượt qua trong cuộc đời. Nhìn chung, tình huống bi kịch chiếm tỉ lệ lớn trong truyện ngắn sau 1975 về chiến tranh bởi nhìn từ hoà bình, chiến tranh để lại những hậu quả khôn lường, những vết thương số phận.

Một kiểu tình huống cũng được sử dụng phổ biến trong truyện ngắn viết về chiến tranh là tình huống tâm trạng. Đó là sự kiện đặc biệt của đời sống mà ở đó nhân vật rơi vào một tình thế làm nảy sinh một biến động nào đó trong thế giới tình cảm. Tình huống này thường dẫn tới một kiểu nhân vật là con người tình cảm. Nghĩa là kiểu nhân vật được hiện lên chủ yếu bằng thế giới nội cảm của nó, nhà văn tạo dựng nên hình tượng nhân vật chủ yếu bằng một hệ thống chất liệu là cảm giác, cảm xúc với các phức hợp khác nhau của chúng. Còn các khía cạnh khác như ngoại hình, hành động, lí tính… ít được quan tâm. Và vì thế, nó quyết định đến diện mạo của toàn truyện, gắn với loại truyện ngắn trữ tình. Dạng thức tình huống này cũng được sử dụng với mật độ cao trong truyện ngắn sau 1975 về chiến tranh bởi cái nhìn trước đề tài này không còn thiên về tính sự kiện, thời sự, cổ vũ kháng chiến mà dõi theo những diễn biến phức tạp của số phận mỗi con người. Nhà văn thường từ một sự kiện nào đó khơi nguồn cho mạch tâm trạng, những điều ẩn sâu trong tiềm thức con người hiện lên rõ nét. Một số lượng không nhỏ truyện ngắn về chiến tranh triển khai trên tình huống kiểu này. Phải kể đến Mỗi tháng có một rằm (Lê Hoài Lương), Hai người đàn bà xóm Trại (Nguyễn Quang Thiều), Dòng sông trinh nữ (Sương Nguyệt Minh), Thảm cỏ trên trời (Ngô Thị Kim Cúc), Tiếng rừng (Hiền Phương), Chị dâu (Hoàng Tuấn), Người không đi qua hoàng cung (Chu Lai)... Tình huống tâm lý trong truyện nhiều khi khó nhận biết nhưng lại gây ra những hiệu ứng cảm xúc mạnh với độc giả. Có thể nói, dạng tình huống này trở thành “chìa khoá” mở ra cánh cửa tâm hồn con người với biết bao điều ẩn chứa sau chiến tranh. Vì vậy cũng tạo nên những thiên truyện ngắn giàu chất thơ, thế giới tâm hồn, tâm linh bí ẩn của con người được bộc lộ.

Bên cạnh đó, kiểu tình huống tự ý thức cũng được sử dụng khá phổ biến trong truyện ngắn sau 1975 viết về chiến tranh. Đó là sự kiện đặc biệt của đời sống mà tại đó nhân vật được đẩy tới một tình thế bất thường khi đối mặt với một bài học nhận thức, bật lên một vấn đề về nhân sinh, về nghệ thuật... cần phải vỡ lẽ, giác ngộ. Kiểu nhân vật của dạng tình huống này thường là nhân vật tư tưởng. Nghĩa là kiểu nhân vật được khai thác chủ yếu ở đời sống nhận thức lý tính của nó. Chất liệu cơ bản để tạo nên nhân vật là hệ thống những quan sát, phân tích, suy lý, đúc kết, chiêm nghiệm… Mà trường hợp đậm đặc nhất là mỗi nhân vật giống như một tư tưởng được nhân vật hoá. Diện mạo của loại truyện ngắn này vì thế thường là nghiêng về triết luận.

Thông thường, kiểu tình huống này trong những cốt truyện tâm lý, sự kiện - tâm lý và cốt truyện luận đề. Tình huống được tạo dựng với những xung đột gay gắt đặt nhân vật vào thế buộc phải suy ngẫm, tự nhìn nhận lại, điều chỉnh quan niệm sống, hành vi của mình và đấu tranh trong nhận thức để vươn đến sự hoàn thiện. Có thể kể đến các truyện như Vở nhạc kịch dâng mẹ (Trầm Hương), Tiếng vạc sành (Phạm Trung Khâu), Truyện rất khó viết (Nguyễn Đông Thức), Vịt trời lông tía bay về (Hồng Nhu), Trang bản thảo chép thuê (Chu Lai)... nhân vật đều có sự thay đổi quan điểm, tư tưởng hay lẽ sống của mình sau khi đối diện với sự kiện “bất thường” nào đó rồi tự soi chiếu, ngẫm ngợi.

Tình huống tự ý thức cũng gắn với những nhân vật ăn năn, sám hối. Bởi chỉ khi nhận thức lại chính mình, họ mới nhận chân được giá trị của cuộc đời và sự đúng sai trong hành động để từ đó tìm thấy sự thanh thản, thay đổi tình cảnh của mình. Đó là tình thế của nhân vật “hắn” (Tiếng chuông chiều - Lê Hoài Lương), Thái (Giấc mơ kí ức - Phan Đức Nam), “tôi” (Con gà rừng - Đoàn Lê)... Những tình huống nhận thức chính là khoảng lặng cần thiết trong cuộc sống con người để nhìn lại chính mình, soi vào quá khứ để tiếp tục tiến về phía trước.

Sự phân loại như trên có tính chất tương đối và việc nhận diện chỉ dựa vào sự nổi trội của yếu tố nào đó để xác định tác phẩm truyện ngắn có tình huống truyện nào. Nhìn chung, đó là những sáng tạo tình huống nghệ thuật để biểu đạt được sự đa dạng, phức tạp của hiện thực trong và sau chiến tranh.

Đã có ý kiến cho rằng văn xuôi đương đại có sự “giải tình huống”, việc phải sáng tạo ra tình huống hay để “neo” câu chuyện không thực sự cần thiết nữa. Tuy nhiên, truyện ngắn đương đại vẫn chú trọng và sáng tạo tình huống giàu sức nặng, chuyển tải câu chuyện cuộc đời con người với những éo le, thương tổn, tình nghĩa, xúc cảm... mang nhiều nét “dị biệt” do tác động của chiến tranh.

4. Đổi mới về ngôn ngữ truyện ngắn

Trong truyện ngắn sau 1975 về chiến tranh ngôn ngữ mang màu sắc mới mẻ, toát lên xu hướng chung của truyện ngắn đương đại và những nét riêng đặc sắc khi nhìn về đề tài chiến tranh.

Có thể thấy trong truyện ngắn từ sau 1975 đến nay về chiến tranh tràn đầy ngôn ngữ đời thường, thô mộc, góc cạnh. Ngôn ngữ truyện vì thế gần với đời sống sinh hoạt hàng ngày, rút ngắn khoảng cách giữa tác phẩm với dòng chảy cuộc sống đương đại. Hướng sử dụng ngôn ngữ này khắc hoạ cuộc sống tự nhiên, chân thực, sinh động, nhiều màu sắc hơn. Việc sử dụng ngôn ngữ giàu tính hiện thực, bình dị cho phù hợp với hướng khai thác cuộc sống ở góc nhìn đời tư, số phận cá nhân trong các mối quan hệ phức tạp sau chiến tranh là hành trình tất yếu. Trong xu hướng kéo ngôn ngữ gần với hiện thực đời sống, nhiều truyện ngắn sử dụng phương ngữ như một cách thức chuyển tải trọn vẹn câu chuyện số phận con người gắn với vùng miền họ sinh sống. Đó là ngôn ngữ của miền Trung trong Bà Thỏn (Trần Thanh Hà), Vịt trời lông tía bay về (Hồng Nhu)... Đó còn là phương ngữ đặc trưng Nam Bộ trong Vết chim trời (Nguyễn Ngọc Tư), Trên mái nhà người phụ nữ (Dạ Ngân), Đỉnh khói (Nguyễn Thị Kim Hòa)... Trong truyện ngắn về chiến tranh biên giới còn có ngôn ngữ Campuchia được sử dụng đan xen: Chăn tha (Trần Thùy Mai), Khô Chănđara (Đỗ Viết Nghiệm), viết về biên giới phía Bắc có ngôn ngữ của gốc Hoa sinh sống ở đất Việt (Mã Đại Câu - người quét chợ Mường Cang, Thím Hoóng - Ma Văn Kháng).

Chất hiện thực, đời thường còn thể hiện ở ngôn ngữ mang hơi thở cuộc sống đương đại. Đó là ngôn ngữ mang tính tốc độ, chứa nhiều thông tin, ngắn gọn phù hợp với nhịp sống của thời đại mới. Chính vì sự dồn nén ngôn ngữ ấy mà truyện ngắn về chiến tranh có xu hướng dung lượng nhỏ gọn hơn. Ngôn ngữ truyện ngắn Việt Nam nói chung và truyện ngắn về chiến tranh nói riêng còn có sự vận động, cách tân, linh hoạt với sự biến hóa trong sử dụng từ vựng, cấu trúc cú pháp. Các nhà văn chú ý tạo ra một giá trị mới cho ngôn ngữ, giải phóng ngôn từ khỏi những nghi thức và định kiến cũ mòn.

Một nét mới khác trong ngôn ngữ truyện ngắn về chiến tranh sau năm 1975 là giàu tính triết lí, trữ tình. Sau chiến tranh, truyện ngắn phát hiện các vấn đề hiện thực trong chiều sâu và chiêm nghiệm cuộc sống dẫn đến giảm ngôn ngữ kể, tả, tăng ngôn ngữ bình luận, phân tích. Vì vậy, truyện ngắn tăng cường sử dụng các từ ngữ mang sắc thái triết lí, suy tư. Chất triết lý trong truyện ngắn sau 1975 về chiến tranh mang màu sắc mới so với giai đoạn văn học trước đây. Trong chiến tranh, mạch triết lý thiên về trách nhiệm của công dân trước lịch sử, cộng đồng. Sau chiến tranh, ngôn ngữ giàu chất triết lý về số phận con người trong những biến động của lịch sử, về phẩm cách, ứng xử của họ với những hậu quả chiến tranh để lại.

Bảo Ninh thường sử dụng thứ ngôn ngữ đậm đặc chất triết lý khi viết về chiến tranh: “Nếu rồi đây không may phải sống đời bất hạnh thì chúng tôi sẽ tự nhủ lòng rằng không sao cả, bởi có nỗi khổ nào của ngày hôm nay sánh bằng những đau khổ đã trải qua trong chiến tranh” (Rửa tay gác kiếm). Và những câu trữ tình ngoại đề của Hoàng Dân về tâm tư con người đi qua chiến tranh được đúc kết một cách thấm thía: “Sống - đó là niềm hy vọng mong manh của những người lính trong bất kỳ một cuộc chiến tranh nào, nhưng dường như càng mỏng manh nó càng hối thúc người lính phải suy nghĩ về nó một cách nghiêm chỉnh” (Chiều vô danh)... Từ sự đổi mới trong quan niệm nghệ thuật, hướng đến lí giải hiện thực ở chiều sâu của nó, trong nhiều truyện ngắn về chiến tranh thời kỳ này có thể bắt gặp ngôn ngữ mang tính triết luận nhưng mỗi nhà văn tạo cho mình phong cách riêng. Vì vậy truyện ngắn gợi nhiều ngẫm ngợi, đọng lại những trăn trở, dằn vặt của nhà văn chứ không chỉ là miêu tả, trần thuật.

Ngôn ngữ truyện ngắn vốn mang chất trữ tình. Tuy vậy, trong kháng chiến, ngôn ngữ truyện ngắn mang chất trữ tình lạc quan vượt lên trên hiện thực khốc liệt. Khi hòa bình, ngôn ngữ trữ tình trải nghiệm, trầm lắng khi viết về cuộc sống sau chiến tranh đầy những điều phức tạp, bộn bề. Điều dễ nhận thấy trong truyện ngắn về chiến tranh là dấu ấn cảm xúc đậm nét làm cho ngôn ngữ đậm chất trữ tình trong những trang văn miêu tả con người và thiên nhiên. Tâm trạng cô đơn, thảng thốt của Mùi khi tỉnh dậy sau cơn ác mộng giữa rừng Trường Sơn đủ các cung bậc: “Cô chỉ là một thực thể nhỏ bé mà phải chống chọi với bao nỗi niềm uy hiếp... Nỗi nhớ chồng da diết kèm theo nỗi lo sợ đến cháy lòng... Nỗi niềm tràn đầy cứ như một thứ chất lỏng trong lòng muốn san sẻ cùng ai mà bốn bề chỉ nín thinh” (Truyền thuyết về Quán Tiên - Xuân Thiều).

Không chỉ vậy, thiên nhiên cũng được miêu tả đậm chất trữ tình. Có thể bắt gặp thiên nhiên hoang sơ, yên bình nhưng đượm buồn phía ngôi nhà người lính trở về sau chiến tranh với thương tật, dang dở trong Miền cỏ hoang (Trần Thanh Hà): “Cỏ léc vẫn rập rờn xanh biếc một màu, ngàn ngàn lớp lớp sóng xô đuổi nhau chạy qua, xôn xao, khấp khởi. Heo may thổi lồng lộng buốt lên tận óc. Lại mưa phùn hay đổ vào buổi chiều tối, giăng mắc lên làng mạc một làn sương mờ dày đặc”. Thiên nhiên cũng được miêu tả quen thuộc, gần gũi, gợi những nỗi niềm riêng tư của con người: “Dòng sông Ba mơ màng với những cánh buồm lộng gió nhẹ nhàng xuôi ngược. Đôi bờ thấp thoáng cỏ lau, hoa vàng của mướp, những nương bắp trổ cờ. Nó trở thành thung lũng hoa vàng dù trong lòng đất một thời chứa đựng máu xương và nước mắt” (Thung lũng hoa vàng - Huỳnh Thạch Thảo). Sự gia tăng ngôn ngữ triết luận, trữ tình trở thành một xu hướng trong truyện ngắn về chiến tranh, biểu đạt tâm thức con người khi nhìn lại chiến tranh, góp phần đưa truyện ngắn về chiến tranh chạm đến tầng sâu cảm xúc và những khái quát chân lý mang tính quy luật của đời sống.

Đặc biệt, trong truyện ngắn sau năm 1975 viết về chiến tranh sử dụng nhiều ngôn ngữ đối thoại. Lớp nhà văn trưởng thành sau chiến tranh lại có những cá tính sáng tạo, sự táo bạo trong tư duy nghệ thuật nên ngôn ngữ cũng có sự biến hoá linh hoạt. Đặc biệt, tinh thần đối thoại trước những vấn đề của chiến tranh và hậu chiến được cụ thể hoá qua ngôn ngữ. Tính đối thoại trong ngôn ngữ truyện ngắn về chiến tranh không chỉ là đối thoại giữa các nhân vật mà là sự tranh biện về quan điểm, tư tưởng trong phát ngôn của họ. Điều này ít thấy trong truyện ngắn giai đoạn trước. Đó là ngôn ngữ tranh luận nảy lửa giữa hai người đàn ông sau chiến tranh trước tình cảnh éo le: “- Đúng, tao sẽ nhảy xuống cầu Hàm Rồng chết vì không lấy được Vịnh. Nhưng mày cũng nhảy xuống sông mà chết vì không sinh được cho nó đứa con nào...” (Người đàn bà sau chiến tranh - Từ Nguyên Tĩnh). Ngôn ngữ đầy tính phản đề của nhân vật cô gái: “Chú trả lời cháu đi. Chiến tranh đã lâu đâu sao mọi người quên nó nhanh đến vậy? Tại sao không chấp nhận sự hy sinh nhiều thua thiệt ấy?” (Họ đã trở thành đàn ông - Phạm Ngọc Tiến). Nhiều vấn đề của cuộc chiến tranh cần được nhận thức lại một cách khách quan hơn khi hoà bình. Do đó, mạch ngôn ngữ đối thoại hiện hữu như một bộ phận thiết yếu trong truyện ngắn về chiến tranh.

Ngôn ngữ đối thoại còn xuất hiện trong phát ngôn giữa những người ở hai phía chiến tuyến. Đó là tiếng nói của những người lính đồng ngũ của nhân vật “hắn” trong giấc mơ: “Hết chiến tranh ở phía Việt cộng họ đi tìm nhau, thằng Mỹ xa là vậy cũng đi tìm nhau; còn bọn tao, ai đi tìm chúng tao?” (Hoài vọng - Văn Xương)... Bên cạnh đó, còn có những đối thoại ẩn chứa trong mạch ngầm văn bản, câu chữ, giữa ngôn ngữ của người kể chuyện với độc giả. Không chỉ trong truyện ngắn, những đặc điểm trên cũng có nét tương đồng với tiểu thuyết sau 1975 về chiến tranh.

Bên cạnh đó, trong truyện ngắn sau năm 1975 về chiến tranh cũng sử dụng nhiều ngôn ngữ độc thoại. Có thể thấy trong truyện ngắn từ sau 1975 đến nay về chiến tranh, cùng với việc thiên về sử dụng cốt truyện tâm lý; tình huống bi kịch, tâm trạng, tự ý thức, trần thuật từ ngôi thứ nhất với điểm nhìn bên trong... nên việc sử dụng nhiều ngôn ngữ độc thoại và độc thoại nội tâm như một hệ quả tất yếu. Ngôn ngữ độc thoại nói chung cho phép nhà văn “viết chính tả cho ý nghĩ”, khai phá thế giới bên trong nhân vật với những suy tư của chính người kể chuyện và nhân vật về các vấn đề, giá trị. Do đó, có thể tái hiện một cách nguyên vẹn, trung thực giọng điệu, từ ngữ, suy nghĩ thầm kín của nhân vật.

Với ngôn ngữ này, nhà văn có thể đi sâu khám phá, miêu tả những trạng thái tình cảm, bí ẩn riêng tư trong suy nghĩ, tâm tưởng, chiều sâu tâm lý của nhân vật. Đặc biệt, ở đề tài chiến tranh, khi nhân vật được đặt vào tình huống tự phán xét, chiêm nghiệm, ý thức với những giằng xé nội tâm trước những gì đã và đang xảy ra, ngôn ngữ độc thoại trở thành phương tiện hữu hiệu. Đó là tiếng lòng của nhân vật mang thương tật nặng trở về quê trong Đêm làng Trọng Nhân (Sương Nguyệt Minh): “Ôi! Bao nhiêu năm anh đã lăn lộn khắp các nẻo chiến trường. Bao năm Trường sống trong nhớ nhung, khát khao chờ đợi...”. Ý thức về tội lỗi trong quá khứ và tâm hồn dịu lại sau chiến tranh, Thái (Giấc mơ kí ức - Phan Đức Nam) tự nhủ: “Mình sống hôm nay cần phải làm những gì? Phải làm sao cho những đôi mắt tin cậy nhìn mình. Không phải chỉ những đôi mắt đó, mà mãi còn đôi mắt có áng mây trôi của người lính trẻ, vẫn dõi theo mình cho đến cuối cuộc đời”… Cùng với ngôn ngữ đối thoại, ngôn ngữ độc thoại phản chiếu thế giới tâm tưởng của nhân vật, tạo nên tính đa thanh trong tác phẩm, không chỉ đề cập đến các cuộc chiến mà cả thời kỳ đối diện với tàn tích, dư âm chiến tranh với những trạng huống tinh thần phức tạp của con người.

Quan sát truyện ngắn về chiến tranh từ những yếu tố thuộc đặc trưng thể loại, cùng với sự kế thừa, nhà văn đương đại vận dụng linh hoạt và sáng tạo, tiếp thu những xu hướng nghệ thuật của văn chương thế giới. Trong nghệ thuật trần thuật của truyện sử dụng lối kể khách quan, di chuyển điểm nhìn đã tạo nên những cách tân mới mẻ. Sự nỗ lực làm mới các kiểu cốt truyện và tình huống đã thành công trong lịch sử truyện ngắn Việt Nam trước đây đem lại hiệu quả đáng ghi nhận khi viết về đề tài này. Một số xu hướng tổ chức cốt truyện tiêu biểu trong văn học thế giới thế kỉ XX như: cốt truyện dòng ý thức, cốt truyện kiểu hậu hiện đại, xu hướng tự do hoá cốt truyện cũng được sử dụng như một cách tiếp cận tạo hiệu ứng mới về chiến tranh. Ngôn ngữ truyện ngắn về chiến tranh được chọn lọc theo hướng gần gũi với đời sống đương đại, ngôn ngữ đối thoại và độc thoại được sử dụng nhiều... tạo nên hiệu quả biểu đạt mới khi viết về đề tài này. Tất cả những điều đó góp phần làm nên sắc diện mới cho truyện ngắn sau 1975 đến nay về chiến tranh.

N.T.P.T

VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
‘Mấy đứa nhỏ diễn sao giống tụi mình ngày đó quá trời’

‘Mấy đứa nhỏ diễn sao giống tụi mình ngày đó quá trời’

Tại Củ Chi có một suất chiếu đặc biệt của bộ phim “Địa đạo- Mặt trời trong bóng tối” được gọi là suất chiếu tri ân.

Nhân vật học viên trong truyện ngắn Mưa ở Bình Dương

Nhân vật học viên trong truyện ngắn Mưa ở Bình Dương

Trong truyện ngắn này, có một nhân vật học viên trong cương vị chủ tịch phường đang theo học lớp tại chức mà nhân vật “tôi” làm thầy giáo đứng lớp... (VĂN GIÁ)

Bóng thầm mà rực rỡ trên mỗi trang văn

Bóng thầm mà rực rỡ trên mỗi trang văn

Sau những giờ lên lớp về lí thuyết, các ông chia nhau mỗi người kèm mấy học viên sáng tác... (CHÂU LA VIỆT) 

Anh Tựu trong "Vượt lũ"

Anh Tựu trong "Vượt lũ"

Anh Tựu của chúng tôi, ngoài đời là Thầy thuốc Ưu tú, tiến sĩ, dược sĩ chuyên khoa II Trần Tựu... (KIỀU BÍCH HẬU)