Chạm vào đâu cũng ngỡ thịt da mình

Thứ Năm, 29/02/2024 11:35

(Đọc Muôn hồi nắng cũ của Nguyễn Thanh Hải, Nxb Hội Nhà văn, 2023)

Mở tập thơ Muôn hồi nắng cũ của Nguyễn Thanh Hải chính là bước vào một không gian của những câu chuyện chiến tranh, mà hình ảnh người chiến sĩ xuất hiện chủ đạo, xuyên suốt tập thơ như sợi dây liên kết giữa hai miền không gian: vàng võ xưa cũ và hiện thời thương tưởng: Đất nước tôi đầy rẫy công sự, chiến hào/ không phải mất mát chỉ một nhà mà nhiều người mẹ già như thế/ Nói ra đây không phải nỗi đau nào cũng đem ra kể lể/ chỉ muốn mặc niệm một chút lòng mỗi độ tháng tư (Mỗi độ tháng tư).

Bằng cách này hay cách khác, người chiến sĩ vẫn sống trong tâm khảm của muôn triệu người Việt, lớp lớp thế hệ. Những bước chân thanh xuân băng rừng, bạt núi để đất nước có ngày thái hòa vẫn rì rầm đi vào thi, ca, nhạc, họa. Ngã xuống hay trở về, mất mát hay toàn vẹn, tất thảy luôn được ghi nhận, luôn được nhắc nhớ như một lẽ thường tình, bởi, trên đất nước này, nơi nào không có vết xước của chiến tranh? Và mỗi câu chuyện chiến tranh trên dải đất hình chữ S này cũng đều đủ sức lay động tâm thức con người: Má nói đó là hố bom/ rộng như năm 1968/ và sâu hố mắt cậu tôi bị hư từ những ngày đạn lạc (Bên đìa bông súng). Từ những câu chuyện đã hóa thành niềm thương đắng đót lòng dạ, thơ Nguyễn Thanh Hải trải lên trang viết những âm ba của nỗi đau. Nỗi đau của những bà má tiễn con đi khi tiếng khóc vẫn nóng hổi bờ vai. Rồi lại hoài vọng nơi bậc cửa mỗi độ tiếng quân hành gõ nhịp xôn xao, mà, chiến cuộc mấy mươi năm qua rồi tiếng chân ấy chẳng quay trở lại, chỉ có những vòng khói nhang hong ấm sự mỏi mòn nua già mắt mẹ: Xin mẹ đừng thăm nữa mẹ ơi/ Mẹ ngồi khóc con hay mưa trời khóc mẹ/ Tiếng chim kêu chạm vào ướt nhói/ Chiều đau như dáng mẹ ngồi (Chiều đau như dáng mẹ ngồi)...

Nguyễn Thanh Hải cũng dành phần lớn không gian trong tập thơ để tự sự với chính mình về chiến tranh thông qua nhiều hình ảnh mẹ, bom, tù ngục, mộ và nhang. Những hình ảnh tưởng đã mòn cũ khi viết về chiến tranh, nhưng qua ngòi bút của mình, Nguyễn Thanh Hải đã mang đến điều mới mẻ dạt dào cảm xúc: Tôi thấy đêm trổ ra một vườn hoa nhang/ lung linh của những người viếng mộ/ tháng bảy chạm vào đâu cũng ngỡ là da thịt/ nhang khói quyện vào người như máu mủ quê hương... (Những ngọn sóng tháng bảy).

Thơ Nguyễn Thanh Hải giữ nguyên vẹn màu cảm xúc bằng những câu chữ giản đơn, nhưng tinh tế khi chọn hình ảnh, ngữ nghĩa hài hòa thanh âm. Đọc thơ như thấy được sự ngọt ngào bẫng nhẹ dẫu đó là nỗi đau. Người miệt thứ đồng bưng nên lòng chân chất, buồn hay vui cũng thẳng đuột ra lời. Nhưng có điều, người xứ này hay có thói quen gói ghém buồn lại, tìm đâu đó trong góc rạ chân quê một sự vỗ về rất thiện lương và xanh lành: Tiếng dòng dọc sáng nay đau như mọi ngày/ mẹ vấp mé quê vớt tổ chim non vừa rơi chấm nước/ gió thổi năm non ngọn gió già xuôi ngược/ hỏi nắng hỏi nôi có thấy hồn nhiên nhảy chân sáo qua vườn (Nghe tiếng chim dòng dọc). Tôi biết chinh chiến đi qua/ tình yêu không kể bằng phím nhân chia hay cộng trừ/ người có tuổi nhưng hồn không tuổi/ gặp lại chiều nay/ hai mái hoàng hôn mà hồn vẫn nắng (Men tháng tư).

Nguyễn Thanh Hải không đi qua chiến tranh, nhưng anh đã luôn nhìn chiến tranh bằng chính sự thổn thức tận đáy lòng mình. Những thổn thức khơi nguồn từ kí ức của ông bà, cha mẹ. Rồi từ đó chiêm nghiệm với hành trình sống, hành trình viết: Như cánh đồng không thể nào nhắm mắt/ những mùa chim bay về thảng thốt/ hố bom càng trong càng tỏ/ chiều chiều nhìn tận đáy quê hương (Bên đìa bông súng). Những câu thơ viết về chiến tranh, về người lính của Nguyễn Thanh Hải tựa như giọt phù sa lấp lánh dưới nắng châu thổ, rọi thấu trong lòng người, mà nhớ, mà ghi, mà trân trọng, vì chiến tranh và hậu quả của nó - mỗi khi nói về nó đều khiến ta day dứt, cảm thương, y như thể chạm vào đâu cũng ngỡ thịt da mình.

                                                                                                 TỐNG PHƯỚC BẢO giới thiệu và chọn

 

Ghi từ Phú Quốc

 

Con bec-giê đá mang bộ phục săn lùng

bất động nghe sắt thép kẽm gai kể chuyện trại tù binh

nắng trưa buồn qua ngực

 

Cầm tay một trời sim mật

không gian không nhiều cho một cuộc đi

tôi theo về phía những dãy tù nơi cất giữ các anh

theo lời con chim khách

 

Người thuyết minh nghẹn và khóc

chùng giọng bên hiện vật đun nước trụng người

nghẹt thở

hồi đó các anh đâu sợ

lớp này ngã lớp khác vùng lên

 

Bức tường bảo tàng lên tiếng

tội ác rút móng chân tay những chiến sĩ đào hầm

đục khoét xương chân các anh vượt ngục

 

Và ngỗng và bec-giê

cũng quen riết hơi người

và mưa trời cũng giúp các anh tàng hình trong đất

 

Trong tận cùng tội ác

là đốt lửa nướng người

anh du kích trẻ Cà Mau

lúc kiệt sức kêu lên mấy tiếng má ơi, rồi nhắm mắt

 

Mỗi tấc đinh sắt đóng vào thịt xương các anh

là căm thù muôn nghìn tấn

anh Sơn, anh Ni, anh Có, anh Rô, anh Khánh

và bao anh khác nữa…

thời gian không thể quên

tên các anh đã lộng vào Tổ quốc

mây trắng viền khung

biển xanh mạ kính

mà mẹ chỉ mong gặp lại các anh bằng thịt bằng xương

 

Nắng trưa điểm danh hàng dương

nghe sau lưng bờ cát gọi

những nùi kẽm gai rào ngang lịch sử

không ngăn được sự thật

cảm giác tủi cho tên quân cảnh phục xanh

trung thành ôm đồn cao đứng gác

ngàn năm sau không tiến hóa nổi thành người…

 

 

Nghe tiếng chim dòng dọc

 

Tiếng dòng dọc sáng nay đau như mọi ngày

mẹ vấp mé quê vớt tổ chim non vừa rơi chấm nước

gió thổi năm non ngọn gió già xuôi ngược

hỏi nắng hỏi nôi có thấy hồn nhiên nhảy chân sáo qua vườn

 

Gió riết bụi chuối sau hè trưa nay buồn như mọi ngày

bà đắp đắp khâu khâu nỗi nhớ mòn tấm áo màu ba lô vá không còn chỗ vá

rẽ đòng đong đưa đêm mùa rẽ mạ

con cuốc kêu buồn non non nước nước không về trú ẩn những nỗi đau

 

Gió sông quê chiều nay nặng như mọi ngày

chị múc từng tiếng trẻ trai ngày xưa gội giùm kí ức

không thể làm mây chiều đắp cho em tấm ngực

cây huyết dụ sau đình sao không cầm được vết thương đau

 

Ngọn nồm đêm nay ngoan hơn mọi ngày

nguôi vi vu chuyện giao liên buổi chiều pháo càn bên kia lộ bốn

bông lau rớt màu trắng gió

bầu trời cụt một tiếng chim

 

Đã bao lần chị múc tiếng trẻ trai gội giùm em kí ức

đã bao năm mẹ thổi năm non ngọn gió già xuôi ngược

bà gấp tấm áo đong đưa mấy mùa

rẽ mạ tìm em...

chiến tranh chìm khuất sông nào

 

Từng tốp sóng bình yên diễu hành ngang ngực nước

từng xác bông móng tay đã bờ bãi an bày

mẹ đã về bên kia sông nằm gần tiếng chim dòng dọc

biên sóng nào mặc niệm em tôi.

 

 

Những lệ núi quê hương

 

Chúng tôi vừa qua đồi Tức Dụp

thấy mùa xuân bên núi cũ chưa mòn

thấy quá nhiều kì bí Cô Tô

không biết sương hay lệ ngập ngừng chuyện núi

 

Thôi đừng kể nữa tiếng sáo hồn thiêng vừa rưới lên mồ

rửa những xa xăm chiều đạn bom kí ức

thôi đừng khượi thêm vết thương trên miệng đá

bao năm đã lành trên Ma Thiên Lãnh rồi

 

Nếu có thể xin gọi Ô Tà Sóc

là lệ núi

lệ núi này có phải của các anh

hay nước mắt mẹ đọng nhiều năm lặn lội

 

Và đau thương sẽ không còn nằm đau như những nắm đá nằm không tên không tuổi

mang bao nhiêu hoa về nghĩa trang để Dốc Bà Đắc nguôi khói và mưa và nước mắt

làm sao có thể cầm lòng được đất trời

khi các anh vẫn đêm đêm tăm tắp thẳng hàng cùng biên giới

thức bảo tàng cho Ô Tà Sóc quê mình/ những lệ núi quê hương…

VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Vòng quay ra con số vòng xoay ra phận đời

Vòng quay ra con số vòng xoay ra phận đời

Tôi nhớ cho đến đầu năm lớp 9, một đêm Dưỡng đạp xe qua nhà tôi cho lại bộ sách rất mới. Dưỡng bảo nghỉ học. Chỉ vậy thôi rồi Dưỡng đi... (TỐNG PHƯỚC BẢO)

Cây thốt nốt quỳ trên núi Tưk-cot

Cây thốt nốt quỳ trên núi Tưk-cot

Tôi được nhiều lần sang Campuchia cùng các đội chuyên trách tìm kiếm, cất bốc, hồi hương hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hi sinh qua các thời kì chiến tranh... (HỒ KIÊN GIANG)

Nguyên mẫu trong hai truyện vừa đầu tay viết cho thiếu nhi của tôi

Nguyên mẫu trong hai truyện vừa đầu tay viết cho thiếu nhi của tôi

Khi viết cuốn Những tia nắng đầu tiên tôi đã hóa thân vào các em nhỏ học sinh lớp 6 của năm học 1969 - 1970 ở Hà Nội... (LÊ PHƯƠNG LIÊN)

Bà Minh của tôi

Bà Minh của tôi

Sống ở Hà Nội, trở thành một công dân có hộ khẩu đến nay đã hơn hai thập kỉ, nhưng chưa bao giờ tôi có cảm giác mình thuộc về Hà Nội... (ĐỖ BÍCH THÚY)