Khái niệm “Gia đình” theo quan niệm của Hồ Chí Minh

Thứ Năm, 05/01/2023 08:33

. HẢI NGUYÊN
 

Trong quan niệm của Bác Hồ, nhà hay gia đình không theo nghĩa cụ thể mà là nghĩa chung, là Tổ quốc, là truyền thống, là đất nước, quê hương. Bác đã hy sinh cái hạnh phúc nhỏ bé mà cần thiết nhất của con người là gia đình riêng để đi tìm hạnh phúc chung cho cả dân tộc. Cả cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong thẳm sâu những suy nghĩ nhỏ nhất đến tư tưởng lớn tất cả đều vì mục đích độc lập cho nước hạnh phúc cho dân. Ngày 16-7-1947 trả lời một nhà báo nước ngoài, Người nói: “Ngài đã hỏi, tôi xin dẹp sự khiêm tốn lại một bên mà đáp một cách thực thà: Tôi không nhà cửa, không vợ, không con, nước Việt Nam là đại gia đình của tôi. Phụ lão Việt Nam là thân thích của tôi. Phụ nữ Việt Nam là chị em của tôi. Tôi chỉ có một điều ham muốn là làm cho Tổ quốc tôi được độc lập thống nhất, dân chủ”[1]. Những người bình thường chúng ta ai cũng có một gia đình riêng, có nhà cửa, có vợ/chồng, con cái, có anh em quây quần. Nhưng Bác thì không (Bác nhấn mạnh bằng ba chữ “không”) vì Bác đã hy sinh tuyệt đối hạnh phúc riêng vì hạnh phúc chung của dân tộc. Bác lấy cái chung làm hạnh phúc cho cá nhân mình.

1. Nhà/Gia đình là Tổ quốc, là đất nước

Trở lại năm 1946, ngày 3-11-1946 Bác Hồ gặp lại người anh ruột - ông Nguyễn Sinh Khiêm: “Hai anh em ôm lấy nhau mừng tủi, xúc động, hỏi nhau về sức khỏe… Người vừa cười vừa đọc: “Chốc đã mấy chục năm trời/ Còn non, còn nước, còn người hôm nay”. Ông Khiêm ứng khẩu: “Thỏa lòng mong ước bấy nay/ Nước non rợp bóng cờ bay đón Người”. Trả lời người anh hỏi về gia đình riêng, Người nói: “Em chưa bao giờ nghĩ đến việc này… Mình không phải là người tu hành, nhưng vì việc nước phải quên việc nhà… Về đến đây cũng là về đến nhà rồi”[2]. Ông Cả Khiêm mở chiếc va-ly đan bằng sợi mây cũ kỹ, lấy mấy quả cam Xã Đoài biếu Bác Hồ.

Bác Hồ đỡ lấy cam, cảm động rơm rớm nước mắt. Nỗi nhớ họ hàng, quê hương trào lên, Bác đọc luôn câu ca về Xứ Nghệ: “Quê ta ngọt mía Nam Đàn/ Bùi khoai chợ Rộ, thơm cam Xã Đoài/ Ai về ai nhớ chăng ai?/ Ta như dầu đượm thắp hoài năm canh”[3]. Trong lời thơ và câu nói của Người khái quát rõ nhất sự hy sinh và tình yêu nước, yêu quê hương, yêu đồng bào đến vô bờ ở Bác. Nhất là câu “Về đến đây cũng là về đến nhà rồi…” cho thấy Bác Hồ coi đất nước Việt Nam này, ở chỗ nào cũng là nhà của mình!

Tháng 4-1949 Người viết thư cho ông Hoàng Phan Kính là cậu và ông Trần Lê Hữu là dượng, có đoạn: “trong lúc giặc Pháp đang dày xéo trên đất nước ta thì phận sự của mọi người Việt Nam là “vì nước quên nhà, vì công quên tư”. Là đầy tớ chung của đồng bào tôi càng phải như thế…”[4]. Càng cảm động và thương Bác hơn khi nghe kể về hoàn cảnh cô đơn của Người: “Đồng chí Phạm Văn Xoàn, cận vệ của Bác kể, hôm ấy đã khuya, tôi thấy tiếng rađiô vẫn nói mà Bác thì nằm im. Tưởng Bác đã ngủ, tôi nhẹ nhàng đi để không phát ra tiếng động vào tắt hộ chiếc rađiô cho Bác. Nhưng khi tôi vừa thò tay vào công tắc, bỗng nghe Bác nói: “Chú để nó nói, nhà có tiếng người cho vui”[5]. Bác hy sinh vì đời chung hàng chục triệu con người nhưng đời riêng cá nhân Bác lại một mình một bóng, lẻ loi. Đã rất nhiều lần và rất nhiều người quen, thân thiết nhắc Bác chuyện gia đình riêng. Bác vui vẻ thổ lộ: “Mình chẳng phải thần thánh gì. Cũng như tất cả mọi người thôi. Nhưng hoàn cảnh hiện nay thì còn điều kiện nào mà nghĩ đến gia đình riêng, hạnh phúc riêng... Sở dĩ Bác chưa lấy vợ là thời ấy Bác xa nhà, xa quê, xa nước, ra đi là để rồi có dịp trở về nước cùng đồng bào làm cách mạng giải phóng Tổ quốc. Muốn vậy Bác phải hết sức bí mật, cơ động nay đây mai đó, giữ kín mình để che mắt địch thì mới hoạt động cách mạng được. Mà đã lấy vợ, thì thông thường vợ phải đi theo chồng. Vợ con đã đi theo thì khó mà giữ kín được...

- Thôi! Gia đình nhỏ không thể được thì ta cứ lo xây dựng gia đình lớn vậy... Trong lúc nóng bỏng, các chú thử nghĩ xem, nếu người dân nghe tin ở Việt Bắc Chủ tịch Hồ Chí Minh lấy vợ thì người ta không khỏi suy nghĩ, bàn tán, ảnh hưởng đến quyết tâm kháng chiến...”[6].

Không còn là ngôn ngữ thông thường, đó là tấm lòng rất thật, trong sáng đến tận cùng, chân thành đến tận đáy đi theo ngữ pháp tâm trạng mà vào lòng người. Cởi mở một tấm lòng, nói ra một sự thật, đó là cách nói thuyết phục nhất!

Theo tác giả Trần Lam, năm 1928 Bác từ châu Âu về tới nước Xiêm. Một tối Bác nghe thấy tiếng một người mẹ ru con bằng Kiều: “Sáng hôm sau, lúc đi đường, với một giọng âu yếm Bác bảo tôi: “Xa nhà chốc mấy mươi niên/ Tối qua nghe giọng mẹ hiền ru con!”. Mỗi khi đi đường xa, Bác thường bảo chúng tôi ngâm Kiều, đọc Chinh phụ ngâm, hoặc kể chuyện, để cho đỡ mỏi”[7]. Nhà ở đây là đất nước (nước nhà), là Tổ quốc mà Bác luôn đau đáu hướng về.

Ngày 20-2-1961 Người về thăm Pác Bó, xe dừng bánh, đồng bào ùa ra xúm xít, Người hỏi:

  • Bà con làm gì mà đông thế này?
  • Đón Bác ạ! Năm mới chúc Bác mạnh khoẻ ạ!

Người lần lượt nhìn mọi người rồi nói:

  • Tôi về thăm nhà mà sao lại phải đón tôi!”[8]. Chỉ một câu nói mà toát ra cả một tư tưởng: cả đất nước này là ngôi nhà, mọi người dân Việt Nam là anh em sống trong ngôi nhà ấy.

Từ những dữ liệu trên cho phép một lý giải: vì sao Bác Hồ lại chọn ở nhà sàn? Chúng ta biết từ lúc sinh ra đến khi lớn lên, ở làng Sen (Kim Liên) đến khi vào Huế rồi vào Bình Khê... rồi ra nước ngoài tìm đường cứu nước, trừ những năm kháng chiến chống Pháp, Bác không ở nhà sàn. Nhưng từ khi về Thủ Đô (1955) Người chọn nhà sàn đơn sơ để ở. Bác là người hiểu sâu sắc truyền thống và luôn kế thừa, tiếp thu tinh hoa từ truyền thống. Mà trong truyền thống, theo các tài liệu sử học, khảo cổ học đã công bố thì từ thời Hùng Vương, dân ta đã ở nhà sàn. Di chỉ trống đồng Đông Sơn cũng có in khắc hình nhà sàn. Như vậy Bác ở nhà sàn cũng là một biểu hiện tinh thần dân tộc. Cũng là một cách Bác nhắc nhở thế hệ sau phải luôn như vậy?!

2. Nhà/cửa hay gia đình là biểu tượng của hoà bình, của hạnh phúc, là chồng/vợ

Trong chuyến thăm các nước Ấn Độ và Miến Điện (Tháng 2/1958) Bác viết Tình nghĩa anh em Việt - Ấn – Miến có đoạn kể lúc chia tay quyến luyến giữa Bác và Thủ tướng Nêru. Cả hai vị chính khách đều dùng biểu tượng: “Lúc chia tay, khách và chủ đều tỏ tình rất quyến luyến. Bác đứng trên cửa xe vẫy tay và nói chơi: “Cửa này là cửa hoà bình”. Thủ tướng Nêru cười và trả lời: “Cửa hoà bình, chúng ta phải để nó mở rộng mãi mãi”[9]. Cả hai lãnh tụ “đồng thanh tương ứng” về “cửa hoà bình”. Đó là sự gặp gỡ của hai tư tưởng lớn yêu hoà bình, thống nhất và độc lập.

Nhìn một cách khái quát nhất, cả cuộc đời Bác đều “Dĩ công vi thượng” là lấy việc chung đặt lên trên hết. Ngay trong thơ là thể loại thường để nói về tâm trạng cá nhân cũng thể hiện rõ điều này: “Vì nước chưa nên nghĩ đến nhà/ Năm mươi chín tuổi vẫn chưa già/ Chờ cho kháng chiến thành công đã/ Bạn sẽ ăn mừng sinh nhật ta”[10]. Bài thơ này Bác làm trả lời các đồng chí và bạn hữu đề nghị tổ chức Lễ mừng thọ (19/5/1949). “Nhà” ở đây là biểu tượng cho hạnh phúc riêng. Người đã hy sinh tất cả vì mục đích của cả dân tộc: “kháng chiến thành công đã”.

Bác Hồ rất Việt Nam ở cách sử dụng ngôn từ. Nghệ sỹ Chu Thúy Quỳnh kể về một kỷ niệm thật hạnh phúc năm 1966, một lần được ăn cơm với Bác: “Thường vào sau các bữa ăn bao giờ Bác cũng cho ăn quả. Hôm ấy, sau khi ăn cơm xong Bác cho tôi thêm một quả táo. Bác nói: “Cháu ăn đi, Bác cho quả này để cháu mang về cho “cái nhà biết đi” của cháu nhé”. Tôi ngượng nhưng trong lòng thì âm ỉ một niềm vui sướng”[11]. Rất đúng với phong tục, tập quán người Việt gọi chồng/vợ là “nhà” (nhà tôi) biểu thị sự thân thiết, đùm bọc. Bác nói “cái nhà biết đi” là nói chồng của nghệ sỹ một cách hóm hỉnh, hài hước, đùa vui.

Bác của chúng ta là thế, rất vĩ đại nhưng cũng rất giản dị, đời thường!

3. Nhà/Gia đình là biểu tượng của sự làm chủ, quyền tự quyết

Chúng tôi xin nêu một ví dụ tiêu biểu. Để tranh thủ sự đồng tình của dư luận quốc tế, sự ủng hộ của các nước Đông Dương trong nhiệm vụ chống kẻ thù chung, Hồ Chí Minh phỏng theo ý của Quốc trưởng Nôrôđôm Xihanúc (lúc bấy giờ Cămpuchia đang theo đuổi chính sách trung lập) kể một ngụ ngôn chính trị lên án, đả kích tội ác của giặc Mỹ xâm lược đã đi ngược lại chân lý thông thường, chà đạp trắng trợn quyền sống, quyền tụ do, quyền dân chủ của nhân dân Việt Nam:

“Thái tử đã nêu một ví dụ rất rõ rệt, đại ý như sau: Nước Việt Nam như là một ngôi nhà. Nhân dân Việt Nam là người chủ nhà. Giặc Mỹ là lũ ăn cướp xông vào nhà người ta. Lũ cướp tự cho chúng có quyền chiếm lấy ngôi nhà, giải quyết mọi việc trong nhà, xử trí tính mạng của những người nhà; nếu họ chống cự thì chúng khủng bố, tra tấn, giết chết họ; chúng đập phá đồ đạc trong nhà và nếu cần thì chúng đốt cả nhà lẫn người nhà. Lũ cướp tự cho cái “quyền” đó, chỉ vì chủ nhà muốn sơn nhà mình bằng màu hồng hoặc màu đỏ; cái màu sắc mà lũ cướp xâm lược không ưa.

Trước sự kiện đó, thì xuất hiện những người “từ thiện” (như Liên hợp quốc, các chính phủ hoặc các quyền lực tôn giáo, tự xưng là những sứ giả hoà bình). Họ bảo người chủ nhà bị nạn rằng: Này bạn, chúng tôi thương hại anh. Song kẻ địch của anh cũng có lòng tốt. Anh xem, họ muốn hoà bình với anh. Với lòng nhân từ, họ bàn với anh chấm dứt chiến đấu và cùng họ thương lượng cách xử trí các việc trong nhà anh. Tốt nhất là anh đồng ý cùng họ chia của cải trong nhà anh và phân phối một cách công bằng những công việc, những trách nhiệm và những quyền hạn quản lý cái nhà của anh. Anh có thể bàn bạc với họ mà không cần đến vũ lực. Anh hãy thương lượng với họ một cách êm ái đi!

Chúng tôi biết rằng anh đòi các ông ấy trước hết phải ra khỏi nhà anh. Nhưng anh phải hiểu rằng các ông ấy không thể làm theo sự yêu cầu quá đáng của anh nếu không có cái gì bảo đảm, ví dụ anh hứa sẽ không sơn nhà anh với màu đỏ và sẽ không xây dựng gia đình anh quá đoàn kết, vì các ông ấy không thích những điều đó.

Đó là một hình ảnh hầu như khó tin, nhưng là hình ảnh thật sự của vấn đề Việt Nam”[12].

Ví dụ đã làm nổi bật một nghịch lý: kẻ cướp lại có quyền bắt chủ nhà làm theo ý của chúng, thế mà, trên thế giới vẫn có người không hiểu, hoặc cố tình không hiểu dã tâm của kẻ cướp ấy. Lại còn có kẻ cơ hội “đục nước béo cò” hùa theo kẻ cướp!

Đồng chí Lê Trang, nguyên Vụ trưởng Vụ Liên Xô - Đông Âu Bộ Ngoại giao kể: Tháng 1-1967 Bác gặp ông Quyntania, giáo sư Pháp, H.S. Axmôrơ, giáo sư Mỹ. Trả lời câu hỏi về vấn đề thương lượng, Bác nói: muốn nói chuyện, trước hết, Mỹ phải ngừng ném bom miền Bắc, sau đó, hai bên sẽ thỏa thuận về ngừng bắn ở miền Nam. Chúng tôi đang sống yên lành. Mỹ đến ném bom, rồi rêu rao ra điều kiện: muốn Mỹ ngừng ném bom, thì Việt Nam dân chủ cộng hoà phải trả giá nào đó. Như thế có khác gì một tên cướp ở Sicagô xông vào nhà đánh và doạ giết chủ nhà, rồi lại bảo nếu muốn nó ra thì chủ nhà phải trả giá!”[13].

Những thiên tài, những nhà tư tưởng lớn luôn có khả năng đặc biệt là khái quát những vấn đề lớn, phức tạp mang tính chân lý vào trong lượng ngôn từ ít ỏi nhất nhưng ai cũng hiểu. Chỉ hai câu nói và một so sánh Bác đã nêu bật ra một nghịch lý: Mỹ đến xâm lược còn bắt chúng ta phải “trả giá”!

H.N


[1] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5. Sđd, tr 201.

[2] Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, tập 3. Sđd, tr 361.

[3] Hồng Khanh - Chuyện thường ngày của Bác Hồ. Nxb Thanh Niên, 2005. tr 31.

[4] Hồ Chí Minh Biên niên tiểu sử, tập 4. Sđd, tr 305.

[5] Cao Bá Sánh - Cận vệ Bác Hồ. Nxb Công an Nhân dân, 2004, tr 370.

[6] Hồng Khanh - Chuyện thường ngày của Bác Hồ. Nxb Thanh Niên, 2005, tr 111.

[7] Báo Nhân dân, số 2242, ngày 9-5-1960 in trong cuốn Bác Hồ - Nxb Văn học, 1960, tr 110.

[8] Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, tập 8. Sđd, tr 31.

[9] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 11. Sđd, tr 318.

[10] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6. Sđd, tr 72.

[11] Hồ Chí Minh với văn nghệ sỹ văn nghệ sỹ với Hồ Chí Minh, tập 1. Sđd, tr 296.

[12] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 15. Sđd, tr 45.

[13] Bác Hồ trong trái tim các nhà ngoại giao - Nxb Chính trị Quốc gia, 1999 tr 272.

VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Vòng quay ra con số vòng xoay ra phận đời

Vòng quay ra con số vòng xoay ra phận đời

Tôi nhớ cho đến đầu năm lớp 9, một đêm Dưỡng đạp xe qua nhà tôi cho lại bộ sách rất mới. Dưỡng bảo nghỉ học. Chỉ vậy thôi rồi Dưỡng đi... (TỐNG PHƯỚC BẢO)

Cây thốt nốt quỳ trên núi Tưk-cot

Cây thốt nốt quỳ trên núi Tưk-cot

Tôi được nhiều lần sang Campuchia cùng các đội chuyên trách tìm kiếm, cất bốc, hồi hương hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hi sinh qua các thời kì chiến tranh... (HỒ KIÊN GIANG)

Nguyên mẫu trong hai truyện vừa đầu tay viết cho thiếu nhi của tôi

Nguyên mẫu trong hai truyện vừa đầu tay viết cho thiếu nhi của tôi

Khi viết cuốn Những tia nắng đầu tiên tôi đã hóa thân vào các em nhỏ học sinh lớp 6 của năm học 1969 - 1970 ở Hà Nội... (LÊ PHƯƠNG LIÊN)

Bà Minh của tôi

Bà Minh của tôi

Sống ở Hà Nội, trở thành một công dân có hộ khẩu đến nay đã hơn hai thập kỉ, nhưng chưa bao giờ tôi có cảm giác mình thuộc về Hà Nội... (ĐỖ BÍCH THÚY)