Văn xuôi  Bút kí - Phóng sự

Ta về tắm nước Đồng Nai

Thứ Năm, 11/10/2018 00:34
Ghi chép. VĂN CÔNG HÙNG
 
psk1367640368

Tôi không nghĩ có ngày mình lại ở Đồng Nai với thời gian được coi là dài đến thế. Với mỗi người, có những vùng đất rất lạ, đầy hấp dẫn, đầy mời gọi, đầy dấu ấn, nhưng lại ít có điều kiện ở lại lâu lâu bởi nó không đủ xa để người ta nấn ná, và cũng không thật gần mà nhoáng cái có mặt kéo ghế ngồi với nhau rồi trở về với công việc của mình. Đồng Nai với tôi là như thế. Biên Hòa cách Sài Gòn chưa đầy hai tiếng đồng hồ, có việc gì là hú nhau về Sài Gòn chứ ít khi ngược lại.
 
“Ngập ngừng” Đồng Nai
Từ bé tôi đã rất thích những câu thơ về Đồng Nai như: Nhà Bè nước chảy chia hai/ ai về Gia Định, Đồng Nai thì về; Bến Nghé của tiền tan bọt nước/ Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây... hoặc câu của thi tướng Huỳnh Văn Nghệ Từ độ mang gươm đi mở cõi/ ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long. Đồng Nai tôi có những bạn văn ở đấy. Tôi đọc họ trước khi được đặt chân đến. Làm nên đất này là công sức của hàng triệu người thuộc nhiều thế hệ, từ thời ông Nguyễn Hữu Cảnh lần đầu bước chân bên bờ sông Phố. Tôi cứ hình dung cửa ngõ Đồng Nai, bao thế hệ đã phải ngập ngừng giữa dừng và bước để rồi những miền đất bao la của miền Tây, mở đến mũi Cà Mau đều xuất phát từ đây. Cũng như thế, trước khi tiến về giải phóng Sài Gòn năm 1975, nơi đây, mà đặc biệt là Xuân Lộc cũng là một cửa ngõ quan trọng. Rất nhiều người, có cả bạn học cùng lớp với tôi, lên đường nhập ngũ đi một lèo từ quê đến đây và mãi mãi nằm lại mảnh đất này.    

Tôi ở Tây Nguyên thiếu chưa đầy ngàn ngày nữa là bốn chục năm, thế mà giờ phải xuống tận chiến khu Đ mới gặp rừng già. Hồi mới lên Tây Nguyên, tôi đã từng lội mấy ngày trong rừng già Đăk Glei để đi từ thị trấn vào đồn biên phòng. Nhưng chỉ mấy năm, nó đã thành... bình địa một cách vừa bất ngờ vừa... không bất ngờ. Tây Nguyên bây giờ trong tôi, là trập trùng đồi trọc và rừng cao su. Vào thăm chiến khu Đ, rừng ngút mắt, thi thoảng, những con thú chạy loạt xoạt trong bụi cây khi có tiếng chân người. Cũng ở Gia Lai, có một khu rừng nguyên sinh, trong chiến tranh được gọi là thị trấn Dân Chủ. Rừng đã che chở để cách mạng chọn đây là căn cứ, là đầu não chỉ huy của toàn bộ chiến trường vùng này. Tất cả mọi cuộc tấn công của đối phương vào đây, từ bộ binh, pháo binh tới máy bay đều thất bại. Rừng vẫn vời vợi xanh, vẫn ngút ngàn để làm đúng chức năng căn cứ địa, bảo vệ chiến khu, bảo vệ căn cứ và bảo vệ dân. Nhưng giờ thì trống huơ trống hoác. Ô tô có thể phóng vèo vèo vào tận khu di tích lịch sử cách mạng mà tỉnh Gia Lai mới khánh thành.

Chiến khu Đ may thay, giờ vẫn là rừng.

Có lẽ là tại bởi độ thiêng liêng và cả linh thiêng. Thiêng liêng là bởi trước khi có căn cứ Tây Ninh, nó là đầu não của cuộc kháng chiến miền Nam. Người ta đã thống kê, những cán bộ hoạt động ở đây, có đến mấy người làm tổng bí thư, thủ tướng, còn bộ trưởng thì rất nhiều. Thiêng liêng hơn nữa là từ đây, bao nhiêu quyết sách quan trọng cho cuộc kháng chiến đã ra đời. Tôi cứ hình dung, rừng già mịt mù, thăm thẳm thế, thăm nhau từ hầm này sang hầm khác đã khó, đã rất nguy hiểm, thế mà lại có thể dõi theo nhất cử nhất động của toàn bộ cuộc kháng chiến trong toàn miền, để rồi liên tục có những quyết định hết sức chính xác theo kịp diễn tiến hàng ngày. Linh thiêng bởi nơi đây, hàng ngàn người lính đã nằm lại, thế nhưng ở nghĩa trang liệt sĩ, người ta chỉ lập được mấy chục ngôi mộ, trong đó nhiều ngôi rất ít xương cốt. Những tấm bia liệt sĩ hình mũi tên vươn lên trời, im lìm trong lõi rừng già, ánh mặt trời thi thoảng mới lọt qua kẽ lá chiếu lên. Nghe giải thích, sở dĩ chỉ quy tập được chừng ấy liệt sĩ dù khu vực này không rộng, là bởi đất ở đây toàn đá sỏi. Thời ấy dụng cụ thô sơ nên đa phần phải đắp nổi, đào được đến đâu thì cố đào rồi dùng đá đắp lên, trong khi đó, đây là vùng có rất nhiều thú ăn thịt nên các ngôi mộ bị chúng xóa sổ. Chuyện đau xót nhưng là sự thật của chiến tranh. Trong chiến khu Đ cũng như rất nhiều nơi khác của Đồng Nai, đền tưởng niệm, bia liệt sĩ cũng được làm theo phong cách kiến trúc Bắc Bộ bởi các liệt sĩ hi  sinh đa phần là người quê vùng châu thổ sông Hồng, hay chính xác là từ khu IV trở ra. Giờ giữa lõi rừng này, có hẳn một đơn vị vừa giữ rừng, vừa hướng dẫn du lịch và chăm lo liệt sĩ, chăm sóc di tích...
 
Đồng Nai của sức dân

Nếu tính từ thời ông Nguyễn Hữu Cảnh được cử làm Thống suất kinh lược xứ Đồng Nai, đặt đại bản doanh ở Cù Lao Phố, đến nay vừa đúng ba trăm hai mươi năm. Ba trăm hai mươi năm ấy, không biết bao nhiêu lượt con dân đã theo ông, đời này sang đời khác để làm nên xứ Đồng Nai sầm uất hôm nay. Tôi đã gặp trên phố, tiếng nói của rất nhiều vùng cư dân. Và không chỉ thế, cả những người nằm xuống nữa, từ những người phu cao su bỏ xứ đến đây mưu sinh đến các liệt sĩ chiến đấu hi sinh cho độc lập tự do của Tổ quốc... Bâng khuâng, cảm phục, và day dứt. Ngày xưa, dù giữa khó khăn trùng trùng, bộn bề hoang mang lo miếng ăn, manh áo, rồi làm sao bảo toàn mạng sống giữa mờ mịt hoang vu của cuộc đi mở đất, các tiền nhân của đất này vẫn lập ra Văn miếu Trấn Biên như một trung tâm văn hóa giáo dục, là Văn miếu đầu tiên của xứ Đàng Trong để tôn vinh những trí thức, các danh nhân văn hóa nước Việt. Lần đầu tiên khi tôi đến đây mười mấy năm trước, địa điểm đầu tiên mà nhà văn Nguyễn Đức Thọ, một người quê gốc Nghệ An, đưa tôi đến là Văn miếu Trấn Biên, chứng tỏ nó là niềm tự hào của những cư dân ở đây. Danh bất hư truyền, từ Văn miếu Trấn Biên này, một loạt người tài đã xuất hiện làm rạng danh cho vùng đất mới phương Nam như Trịnh Hoài Đức, Võ Trường Toản, Nguyễn Đình Chiểu...

Đến Đồng Nai chưa ghé làng bưởi Tân Triều là chưa biết Đồng Nai. Thực ra thì câu này cũng hợp lí với rất nhiều địa danh khác như cù lao Phố, Xuân Lộc, chiến khu Đ, Mã Đà, Trị An... nhưng danh xưng bưởi Tân Triều có vẻ hấp dẫn hơn bởi đằm trong ấy, là một chút gì đó ngọt ngào, mềm mại, mỏng manh. Thăm Tân Triều tôi mới té ra câu ca hay nghe: Rồng chầu ngoài Huế/ Ngựa tế Đồng Nai/ Nước sông trong chảy lộn nước sông ngoài/ Thương người xa xứ lạc loài đến đây... có xuất xứ từ vùng đất này. Sông nơi đây mang đặc trưng phương Nam với cây cối um tùm ven bờ, nhiều nhất là dừa, mắm và đước, nước bùng bình nửa trôi nửa lặng, từng đàn cá lìm kìm như thả như buông như đùa mà lại như đang ngủ giữa những giề lục bình. Sông miền Trung và miền Bắc chảy xiết nên lục bình rất khó sống, độ thơ thới cũng chẳng thể nào bằng. Ngồi ở quán nhỏ nhô ra sông, uống li nước bưởi ép chính hiệu, nghe bạn kể về cái xứ này mới thấy kinh ngạc bởi cái làng bé nhỏ ấy chứa trong mình bao nhiêu huyền tích. Những người khai khẩn dũng cảm, ưa khám phá, từ mấy trăm năm trước đã đặt những bước đầu tiên đến ngôi làng này. Thương hiệu bưởi Biên Hòa lừng danh khắp trong Nam ngoài Bắc chính là bưởi Tân Triều trong khi thực ra Tân Triều thuộc Vĩnh Cửu, một huyện cửa ngõ Biên Hòa. Cũng như về Nghĩa Đàn, Nghệ An mới biết, té ra cái thương hiệu cam Vinh nổi tiếng là chính từ Nghĩa Đàn chứ Vinh làm gì có.
 
Đồng Nai áo thợ

Đặc sản của Đồng Nai là... lịch sử và... đất đỏ. Đất đỏ miền Đông nổi tiếng vì thế mới có một bài hát lấy hẳn nó làm tên. Đất đỏ biến nơi đây thành những vựa trái cây nổi tiếng như Long Khánh. Có thể kể thêm một loạt đặc sản hoặc chuẩn bị đặc sản, nhưng có một đặc sản của mảnh đất này mà tôi muốn nói đến nữa là áo thợ.

Mấy chục năm nay, Biên Hòa, Đồng Nai là nơi các doanh nghiệp tìm về hội tụ, thành phố công nghiệp Biên Hòa trở thành địa chỉ uy tín thu hút nhân lực vật lực. Trong một bút kí viết đã lâu của nhà văn Nguyễn Đức Thọ, tôi nhớ anh tả một buổi chiều Biên Hòa mưa, những bóng áo thợ thấp thoáng, nó là sự tiếp nối của những phu cao su ngày xưa. Anh dự cảm về những ngày mai của thành phố công nghiệp, của những đổi thay trên vùng đất này. Chắc khi ấy, anh cũng chả hình dung được rằng, chỉ hơn chục năm, cái diện mạo công nghiệp anh thấy và dự cảm thời ấy với bây giờ nó khác nhau như thế nào. Đúng nghĩa là công nghiệp, đúng nghĩa là hiện đại. Tôi có vào thăm khu bảo tồn cao su cổ, ở đó vẫn còn những ngôi nhà dành cho phu cao su ở. Nó khá tươm tất so với thời đó, khác xa với những gì trong suy nghĩ của tôi, trong cả những câu ca dao nhiều người thuộc: Cao su đi dễ khó về/ khi đi trai tráng khi về bủng beo, rồi Cao su xanh tốt lạ đời/ mỗi cây bón một xác người công nhân. Bây giờ, công nhân càng khác xa nữa. Tất nhiên vẫn còn nhiều điều phía sau sự uy nghi hiện đại của thành phố công nghiệp, như ô nhiễm môi trường, đời sống cho ra đời sống, tức là làm và chơi, lao động và hưởng thụ nhiều khi chưa tương xứng bởi sự phát triển nóng đang... dàn đều trên cả nước. Đồng Nai đang có chủ trương đóng cửa và di dời khu công nghiệp Biên Hòa 1 vì nó đã lạc hậu, gây ô nhiễm cho con sông cực đẹp, đáng tự hào là sông Đồng Nai. Nhưng thành phố công nghiệp, thành phố áo thợ là một thực thể, là sự phát triển đi lên của Đồng Nai. Đồng Nai đã và đang bước trên cả hai chân là nông nghiệp và công nghiệp. Bí thư tỉnh ủy Đồng Nai, ông Nguyễn Phú Cường cho biết, tỉnh hiện có 30.000 doanh nghiệp (tôi đã hết sức hoang mang với con số này, bởi ba - mươi - ngàn là một con số quá lớn mà bản thân một nhà thơ như tôi không thể hình dung), trong đó có 1.778 dự án đầu tư nước ngoài, ba quốc gia, vùng lãnh thổ đầu tư nhiều nhất là Hàn Quốc, Đài Loan và Nhật Bản, thu hút gần một triệu lao động từ khắp nơi về đây. Tôi từng viết những bài báo về cảnh cứ sát tết là hàng chục triệu người dân Việt xa xứ rùng rùng chuyển động về quê ăn tết, chủ yếu từ Nam ra Bắc và sau tết thì ngược lại. Nó là nhu cầu thiết thân nhưng lại cũng là hệ lụy, là gánh nặng xã hội. Nhưng không thể khác. Cả năm đi làm, tết phải về, phong tục Việt là thế, dù gần đây số người chọn tết để đi du lịch khá cao, nhưng số người tết bằng mọi giá phải về quê vẫn chiếm đa số. Họ, chủ yếu là công nhân từ các khu công nghiệp mà Đồng Nai “góp” vào đấy gần một triệu người. Những năm gần đây, tình hình đã được cải thiện bởi các công ti chủ động phương tiện đưa công nhân về quê, coi như là một phần phúc lợi xã hội. Và tỉnh cũng tham gia vào việc này khá tích cực. Tỉnh Đồng Nai luôn coi công nhân là tài sản, là vốn quý của doanh nghiệp, của tỉnh. Bốn lăm công trình nhà ở xã hội với hai mươi nghìn căn hộ dành cho công nhân đã và sắp hoàn thành.
 
Khí phách Đồng Nai


Đồng Nai là đất nhiều văn nhân chọn làm nơi trú ngụ. Những bạn văn của tôi ở đây vừa lẫn vào với mọi người, nhưng lại cũng là chính họ. Họ là một phần của Đồng Nai và Đồng Nai cũng có trong họ một phần. Một Đồng Nai vừa cụ thể vừa bí ẩn trong văn Lý Văn Sâm, Hoàng Văn Bổn, vừa hiện đại vừa tươi mới mà cũng hết sức khắc khoải trăn trở trong văn Nguyễn Đức Thọ, Khôi Vũ, Nguyễn Một... Vì họ sống trên một vùng đất vừa đầy bí ẩn và da diết những hoài niệm, vừa đau thương vừa kiêu dũng, vừa bi tráng vừa tươi non. Những đan cài, những xoáy ốc cả thực tiễn và cảm xúc, cả quá khứ và hiện tại khiến đất này luôn làm người ta phải háo hức, phải rón rén, phải thận trọng và cả òa vỡ nông nổi.

Có một buổi trưa tôi được diện kiến nhiều tài hoa đất này. Ngoài những nhà văn tôi quen thì có thêm các nhạc sĩ, họa sĩ... Họ mê đắm Đồng Nai, thấm đẫm Biên Hòa, nhuần nhị từng tên người tên đất của vùng đất này, dù họ, như nhiều người Đồng Nai đương thời, và cả từ xưa, đa phần là dân góp. Họ hào sảng, hiếu khách. Cái văn hóa Đồng Nai có uy lực rất lạ, ai đến đây là bị khuất phục ngay một cách hết sức tự giác, êm dịu và nhuần nhị. Chất hào sảng, hiếu khách là một trong những tố chất quan trọng làm nên Đồng Nai, thành tự hào Đồng Nai, nỗi nhớ Đồng Nai. Như đã nói, chỉ không đầy hai tiếng đồng hồ đã là Sài Gòn, thế mà Đồng Nai vẫn không bị lẫn, không bị “hòa tan”, vẫn một Đồng Nai tự tại, tự tin. Tôi đọc được điều ấy khi ngồi ở những quán cà phê bên sông, ngắm một anh chàng ngồi câu, trên tay là... cuốn sách. Cả buổi chả thấy con cá nào, nhưng cuốn sách thì được lật quá nửa. Tôi cũng đọc được điều ấy ở cái động tác sồn sồn dứt khoát của anh bạn “phây” Phan Đình Dũng, khi bỏ nửa buổi sáng quyết liệt phi xe máy đến đón tôi, chở đi thăm bảo tàng Đồng Nai rồi... tiện thể tha đi khắp các nơi “anh cần biết ở Biên Hòa”, và chỉ thả về khi con gọi tới đón vì đã trễ, cháu học xong đã lâu. Anh dân sử, từng làm ở bảo tàng tỉnh, giờ dạy ở Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh nhưng vẫn bám trụ Đồng Nai, đi đi về về chứ không chuyển về cơ quan mới. Anh là một “trung tâm tư liệu” Đồng Nai. Khi ngồi viết bài này, tôi cứ ước ao mình là Dũng, có được một góc sự thông minh, hiểu biết và trí nhớ của anh về Đồng Nai. Đến đâu, anh cũng kể vanh vách với tôi như một hướng dẫn viên chuyên nghiệp mà lại như một người bạn, một đồng nghiệp dù là lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau. Là bởi Đồng Nai đã là máu thịt, dù anh là người Quảng, mà đa phần dân Quảng rất ngang, chả phục ai bao giờ, thích phản biện và... hay hỏi. Đến câu trả lời cũng thường là câu hỏi.

“Thì cũng phải thế nào mới được thế” là câu chúng tôi hay đùa nhau trên thế giới mạng. Và có thể áp câu này với Đồng Nai, dù những gì tôi thấy, tôi chứng kiến, tôi trải, chỉ như những cú đập cánh chuồn chuồn. Tôi không so sánh với bướm, bởi hôm vào khu lịch sử chiến khu Đ, tôi đã thấy những thảm bướm khổng lồ, chỉ đậu chứ không bay. Đẹp đến mê hoặc, đến ngẩn ngơ. Thì cũng phải như thế nào bướm mới đậu chứ, dù bất cứ lí do gì.

Và, sông Đồng Nai vẫn mải miết trôi. Cái kiểu trôi mà như không trôi, mà lại là trôi, nồng nhiệt, như không thể khác, không thể ngừng, nhưng vẫn níu kéo, vẫn ngập ngừng..., như cái câu: Ai về Gia Định Đồng Nai thì về vẫn buông thả như mặc kệ như dửng dưng nhưng lại hết sức níu kéo, hết sức chủ thể và hết sức mặc định để Đồng Nai mãi mãi là nỗi nhớ, là điểm đến, điểm dừng và là ước mơ trở về của từng người đã biết Đồng Nai.

V.C.H  

 
VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Vòng quay ra con số vòng xoay ra phận đời

Vòng quay ra con số vòng xoay ra phận đời

Tôi nhớ cho đến đầu năm lớp 9, một đêm Dưỡng đạp xe qua nhà tôi cho lại bộ sách rất mới. Dưỡng bảo nghỉ học. Chỉ vậy thôi rồi Dưỡng đi... (TỐNG PHƯỚC BẢO)

Cây thốt nốt quỳ trên núi Tưk-cot

Cây thốt nốt quỳ trên núi Tưk-cot

Tôi được nhiều lần sang Campuchia cùng các đội chuyên trách tìm kiếm, cất bốc, hồi hương hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hi sinh qua các thời kì chiến tranh... (HỒ KIÊN GIANG)

Nguyên mẫu trong hai truyện vừa đầu tay viết cho thiếu nhi của tôi

Nguyên mẫu trong hai truyện vừa đầu tay viết cho thiếu nhi của tôi

Khi viết cuốn Những tia nắng đầu tiên tôi đã hóa thân vào các em nhỏ học sinh lớp 6 của năm học 1969 - 1970 ở Hà Nội... (LÊ PHƯƠNG LIÊN)

Bà Minh của tôi

Bà Minh của tôi

Sống ở Hà Nội, trở thành một công dân có hộ khẩu đến nay đã hơn hai thập kỉ, nhưng chưa bao giờ tôi có cảm giác mình thuộc về Hà Nội... (ĐỖ BÍCH THÚY)