.Nhà thơ VƯƠNG TRỌNG
	
Năm 1986, nhân dịp tôi ghé về thăm quê, các anh công tác ở thị trấn Đô Lương mời tôi tham gia viết lịch sử của thị trấn, đặc biệt trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Theo hướng dẫn, tôi được gặp một điển hình thời chống Mỹ, chị Bùi Thị Vấn, một trung đội nữ dân quân nổi tiếng gan dạ, bất chấp bom đạn, lãnh đạo một trung đội nữ dân quân trên ba mươi người làm nhiệm vụ tiếp đạn tải thương… và nhiều đêm làm “cọc tiêu sống” cho xe quân sự ra vào qua vùng Đô Lương. Khi chưa gặp, tôi hình dung đây là một người đàn bà to khoẻ, nước da ngăm đen, vẻ mặt kiên quyết…Nhưng khi gặp, hai điều làm tôi ngạc nhiên. Thứ nhất, vể hình thức, chị Bùi Thị Vấn ngược lại những gì tôi đã hình dung: một người đàn bà tầm thước, nước da trắng mịn, nói năng nhỏ nhẹ, ý tứ. Năm đó chị đã 38 tuổi rồi nhưng trong vẫn khá trẻ, mà lại còn…xinh nữa. Điều ngạc nhiên thứ hai là chị sống độc thân trong một căn nhà rộng, trong một khu vườn rộng, nhà của bố mẹ chị để lại. Chị Vấn lục những tấm ảnh chụp hồi chiến tranh để cho tôi có thêm tư liệu. Trong số ảnh này, tôi đặc biệt chú ý tới bức ảnh chị chụp cùng Thiếu tướng Lê Quang Hoà, Tư lệnh Quân khu 4, cùng một số đại biểu về dự Đại hội chiến sĩ thi đua. Trong ảnh đó, chị mặc bộ quần áo đen, làm cho nước da càng thêm trắng nổi bật so với những gương mặt xung quanh. Tôi không giải thích nổi, ở vùng quê gió Lào khắc nghiệt, lại dầm mưa dãi nắng trong bom đạn chiến tranh, mà nước da kia vẫn trắng mịn thế kia? Nội dung chính của câu hỏi phỏng vấn là công việc của trung đội dân quân nữ trong thời kỳ đó…Khi chuyện chung xong rồi, mới sang chuyện đời riêng, tôi tìm hiểu tại sao một con người nhan sắc như chị mà đến nay vẫn sống một mình. Lúc đầu chị còn đùa trêu tôi: “ Tại thời ấy anh không về công tác tại Đô Lương! Giá như ngày ấy anh về gặp em, thì em đâu còn cô đơn như thế này”! Rồi sau đó chị tâm sự hoàn cảnh của mình.Thì ra hồi chiến tranh chị từng yêu một chàng trai cùng quê. Hai người đã hẹn ước, thề thốt với nhau khi anh lên đường nhập ngũ. Và chị chờ đợi. Chờ đợi hết cả cuộc chiến tranh vẫn không có tin tức gì về anh. Chị đợi tiếp hơn chục năm sau khi nước nhà thống nhất mà anh vẫn ‘bặt vô âm tín”. Và chị vẫn đợi, vẫn đợi…
	   Có một tối tôi đang ngồi nói chuyện với chị trong ngôi nhà trống trải ấy, bỗng nhiên nghe mấy tiếng “Tắc- kè, Tắc- kè”. Thấy tôi ngạc nhiên quay tìm nới phát ta tiếng kêu, chị gải thích: “ Con tắc kè nó đến ở với em đấy mà. Mọi hôm giờ này em thường bắt dán cho nó ăn, nên hôm nay, nó nhắc đấy”! Lời nói của chị làm cho tôi càng thấm thêm nỗi cô đơn và thầm nghĩ: Khi cuộc chiến tranh đi qua, đất nước ta có biết bao người âm thầm gánh chịu nỗi cô đơn như chị Bùi Thị Vấn, nào đâu đã được chờ chồng, mà đằng đẵng đợi chờ người ra đi khi chỉ mới trao nhau một lời hẹn ước!
	    Với “nguyên mẫu” Bùi Thị Vấn, tôi đã sáng tác hai bài thơ, trong đó có một bài lục bát từng được giải nhất của cuộc thi thơ do bộ Giao thông Vận tải tổ chức cách đây chừng một phần tư thế kỷ.
	V.T
	Chị
	
	Hẹn một lần, chờ đợi mấy ngàn ngày
	
	Anh đi biệt phương trời không trở lại
	
	Căn nhà rộng, ngày lẻ loi mình chị
	
	Đêm thắp đèn cho bóng nữa thành đôi.
	
	Cũng cơm canh, cũng bếp núc, xoong nồi
	
	Mà vắng vẻ, mà âm thầm lặng lẽ
	
	Nhà hàng xóm thừa ồn ào tiếng trẻ
	
	Chị thiếu từng tiếng bát đũa va nhau.
	
	Bưởi chín vàng rụng xuống hiên sau
	
	Chua lắm vậy, chẳng thể nào ăn được
	
	Chị bóc múi, một mình ngồi đếm hạt
	
	Xâu thành vòng như cái thuở xa xôi.
	
	Con tắc kè thương chị đơn côi
	
	Về chung sống dưới mái nhà tre nứa
	
	Tắc kè ơi đừng kêu lẻ nữa
	
	Nắng mưa chi, cũng kêu chặn, đỡ buồn!
	
	Mùa đông ơi, sao chẳng thấu nguồn cơn
	
	Cứ dằng dặc những đêm dài rét buốt
	
	Đợi le lói chút nắng mềm cuối chạp
	
	Mắt chị nhìn hoa cải vàng hoe
	
	Người đi xa, cuối năm những ai về
	
	Mà lối xóm râm ran lời chào hỏi
	
	Sao chẳng được làm người đón đợi
	
	Cổng mở hoài, chỉ có gió và sân…
	
	Có cách gì cắt ngắn được thời gian
	
	Gói cất kỹ hai mươi năm chờ đợi
	
	Để chị được trở về mười tám tuổi
	
	Để trai làng có nơi hẹn mùa xuân.
	
	                                   1986
	 
	
	Tranh của họa sĩ THÀNH CHƯƠNG
	
	                Giá như ngày ấy
	
	         
	
	Bài lục bát thật vần tặng chị Bùi Thị Vấn và trung đội dân quân thị trấn Đô Lương.
	
		
			| 
				 
					 
					- Giá như ngày ấy anh về 
					 
					Hẳn là hiểu được người quê hương mình! 
					 
					Giữa chừng câu chuyện, lặng thinh 
					 
					Chị nhìn ánh nắng lung linh ngoài trời 
					 
					Là khi hồi tưởng, chị ơi? 
					 
					Cái thời đạn xối, cái thời bom rung 
					 
					Bao đêm bóng tối mịt mùng 
					 
					Xe đi vang động một vùng quê hương 
					 
					Ngọn đèn thị trấn Đô Lương 
					 
					Cùng người thức suốt chặng đường chiến tranh 
					 
					Ba mươi cô gái hiền lành 
					 
					Tấm áo gụ, tấm quần xanh dịu dàng 
					 
					Mà gan dạ, mà hiên ngang 
					 
					Đội bom đứng giữa mênh mang đêm dài 
					 
					Dáng người hay dáng tượng đài 
					 
					Vươn cao, nòng súng nhô vai lặng thầm 
					 
					Sương đêm mái tóc ướt đầm 
					 
					Mắt như sao sáng thấu tầm gần xa 
					 
					Đón quân vào, đợi quân ra 
					 
					Ngọn đèn  -  ánh lửa quê ta dõi nhìn. 
					 
					Tuổi đôi mươi với niềm tin 
					 
					Qua trăm ác liệt, vượt nghìn khó khăn 
					 
					Nắm mì luộc, cũng bữa ăn 
					 
					Ngủ đêm trận địa chiếu chăn cần gì 
					 
					Bất ngờ gọi dậy là đi 
					 
					Tiếng cười con gái có khi sáng đường 
					 
					Sau ca tiếp đạn tải thương 
					 
					Khoả chân xuống nước sông Lường thảnh thơi! 
					 
					- Làm sao gặp được chị ơi 
					 
					Ba mươi cô gái của thời chiến tranh 
					 
					Người thì con đã trưởng thành 
					 
					Người thì lỡ bước chưa đành sang ngang? 
					 
					Ngoài trời nắng vẫn chang chang 
					 
					Tiếng ve đầu hạ đổ vàng vườn quê 
					 
					Chị nhìn, ánh mắt say mê: 
					 
					- Giá như ngày ấy anh về Đô Lương! 
					 
					                                      
					 
					                             Đô Lương, 1986 
				
					  
			 |