Thứ Năm, 06/12/2018 10:08

Về với mênh mông

Đà Lạt năm ấy đón chúng tôi bằng một đợt áp thấp nhiệt đới dài. Mưa không lớn, chỉ rả rích, nhưng ở lưng chừng phố núi, hình như những hạt nước dày hơn, nặng trịch một niềm cô độc lạnh giá. (Tản văn của NGUYỄN ĐÌNH MINH KHUÊ)

. NGUYỄN ĐÌNH MINH KHUÊ

Đà Lạt năm ấy đón chúng tôi bằng một đợt áp thấp nhiệt đới dài. Mưa không lớn, chỉ rả rích, nhưng ở lưng chừng phố núi, hình như những hạt nước dày hơn, nặng trịch một niềm cô độc lạnh giá. Những kiếp mưa bay trên núi lúc nào cũng vậy. Không theo gió viễn du giữa mênh mông đại dương, không phiêu lãng cùng những chuyến mây xa để rơi xuống đồng bằng, làm bạn với nương ruộng, song hành trình của chúng rất có thể phải dừng lại trên một đỉnh đèo hoang dại, trơ trọi cây cỏ hay giữa một con suối độc hành nơi rừng sâu. May mắn lắm những hạt mưa núi cao mới có thể kết thúc vòng đời vội vã của mình giữa bạt ngàn sóng nước hồ Xuân Hương, đêm đêm nghe mùi khoai lang nướng thơm và tiếng người huyên náo vọng ra từ chợ Âm phủ.

Trong màn mưa thênh thang giữa cao nguyên Lâm Viên năm ấy, chúng tôi đến thăm Trúc Lâm thiền viện.

Chùa nằm trên một ngọn núi cao, quanh năm trầm mặc say ngủ trong sương mây. Dưới làn mưa mỏng, toà thiền viện do sư thầy Thích Thanh Từ đặt đá xây dựng từ năm 1994 càng thêm vẻ bí ẩn mơ màng như đang vân du trong cơn mơ trời đất. Những bụi hoa rừng được trồng dày trước sân chùa chưa vội bung nở như cố e ấp những giọt nước của trời, níu giữ một giấc ngủ vô ưu.

Vậy mà, khi vị sư già trong chánh điện thiền viện trầm ngâm lấy tay dùi bằng gỗ màu nâu sẫm gõ mạnh vào cái chuông lớn, màu đồng sáng choang trên ban thờ tam bảo, thì một thanh âm thăm thẳm kéo đến, vang động ra mênh mông, khiến rặng hoa ngủ quên và những quầng mây xám ngoét trên đỉnh Phụng Hoàng như bừng tỉnh. Tiếng chuông vang đi rất nhanh, vượt qua màn mưa mỏng và bầu khí rét ngọt, sanh sánh hơi ẩm của cao nguyên chiều chớm thu, tỏa đi chung quanh. Một phần vọng ra làm lao xao trảng rừng thông u mặc bên bờ hồ Tuyền Lâm rồi dần lan về phía những thung lũng huyền hoặc thâm u dưới chân đèo Prenn. Phần bay dìu dặt về phía thành phố.

Trong một khoảnh khắc mơ hồ, chẳng hiểu vì sao những lữ khách nơi núi cao, dù đang mê say chiêm ngắm sắc vẻ thanh tú của những khóm hoa rừng, lại chợt chững lại, vô thức lắng tai nghe tiếng chuông vọng đến. Ban đầu là một thứ âm vang trong vắt, thanh khiết, từng sợi âm mỏng nhưng đầy uy lực ngay lập tức kích tạo một thoáng run rẩy kì diệu nơi màng nhĩ. Rồi sau đó, rất nhanh, xung động ấy nhường chỗ cho một chuỗi các nốt trầm vang, càng về sau cao độ càng thấp dần, âm lực cũng nhỏ lại để cuối cùng tan đi giữa thinh không, hệt như một làn sương mỏng âm trầm biến mất mỗi khi bình minh bắt đầu rực rỡ. Lắng tai nghe tiếng chuông bay trên đỉnh Trúc Lâm, người ta bỗng thấy cái thân xác thô kệch và những nỗi đoạn trường của đời mình thu bé lại chỉ còn bằng một hạt bụi nâu, trơ trọi giữa mênh mông xa xôi, giữa cái khoảng không vô tận thoát thai từ những vọng âm của tiếng chuông sơn tự. Tiếng chuông càng vang xa, càng nhỏ lại thì khoảng không ấy càng lớn rộng, nhưng hình nét của nó lại nhòe tan đi để cuối cùng chìm vào một vùng sa mù. Đứng chơi vơi giữa trời đất thiên thu ấy, các ý nghĩ tạp nhạp trong đầu như được tẩy rửa, chợt nhẹ hẫng, vút lên giữa trời cao rồi bay biến đi đâu mất trong một cõi hư vô tĩnh tại. Tâm trí tịnh sạch, trống rỗng như một lạch nước mơ màng trôi đi giữa rong rêu và mây khói, chưa một lần biết đến trần ai…

Minh họa: Ngô Xuân Khôi

Nghe tiếng chuông thiền viện vọng vang trên đỉnh Phụng Hoàng năm ấy, mới hay có một chân lí giản dị mà không nhiều người nhận ra, rằng một âm thanh sinh ra là để vang đi. Đời sống của nó, dù đôi khi rất ngắn ngủi, song không chấp nhận một số kiếp quẩn quanh tù đọng. Nó cho thấy sự hiện hữu của mình giữa đời chính bằng cái cách mà nó tỏa đi, vang động ra chung quanh và kiến tạo nên những khoảng đồng vọng bát ngát.

Một thứ âm thanh tuyệt mĩ không cần phải là những vang động đa sắc, những xập xình giần giật kích thích tai nghe, mà ngược lại, nó thường ẩn mình trong một thù hình mộc mạc, bé nhỏ hoặc đơn điệu song lại có khả năng kích nhạy không chỉ thính giác mà còn mời gọi toàn bộ ngũ quan, máu nóng, xác thịt và tâm cảm người ta rầm rộ bước chân vào một vũ điệu bất tận của tưởng tượng, mở ra một khoảng mênh mông của kí ức và những nỗi xúc động diệu kì, không khác gì một vụ Big Bang thánh linh mà ở đó, từ một tồn tại bé nhỏ có thể bùng vỡ thành một vũ trụ khổng lồ sâu thẳm. Chính từ đây, vẻ đẹp của một âm thanh mới thực sự phát lộ. Một vẻ đẹp vô hình huyễn ảo vượt lên trên mọi giác quan và tri giác thường nghiệm. Cái đẹp của minh triết trầm sâu.

Ngoái nhìn lại di sản hàng ngàn năm của thơ ca phương Đông, ta không khó để nhận thấy ít nhiều những hình bóng tương chiếu lối tư duy ấy. Các thi nhân xưa thường kì khu thiết đặt những không gian rộng lớn, mang tầm vóc vũ trụ mỗi khi muốn nhắc đến, muốn khắc họa một âm thanh đặc biệt. Ngược lại, chính những thanh âm ấy vừa là nguồn khơi mở, thổi hồn vào cái bát ngát của thực tại, vừa tạo dựng nên trong hồn người những cõi tri cảm mênh mông.

Hơn ngàn năm trước, có lữ khách đậu thuyền nơi bến Phong Kiều, giữa giấc mộng tịch mịch chợt nghe một tiếng chuông thoảng bay đi từ ngôi chùa Hàn San nằm cheo leo trên một đỉnh mây trắng ngoài thành Cô Tô: Cô Tô thành ngoại Hàn San tự/ Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền (Ngoài thành Cô Tô có chùa Hàn San/ Tiếng chuông nửa đêm vẳng đến thuyền khách). Giữa lập lòe những đốm lửa thuyền chài, cái thanh âm thanh thoát loang ra khắp mặt sông đêm đầy sương làm dịu lòng một kẻ cô sầu thất thế, khiến hồn thơ bụi bặm chợt ngân rung một mĩ cảm diệu kì.

Nhưng trong Đường thi còn có một lữ khách nổi tiếng khác, cũng lỡ độ, đậu thuyền lại ở bến sông khuya và cũng nghe thấy một chuỗi thanh âm vang vọng. Nhưng bến sông ấy là bến Tần Hoài, cách thành Cô Tô trong thơ Trương Kế hơn 200 cây số về phía Đông, và cái âm thanh mênh mông mà kẻ lữ thứ ấy nghe được cũng không phải là một tiếng chuông thiền an giải những mối sầu lụy, mà là khúc Hậu đình hoa bay ra từ một quán rượu ven sông: Yên lung hàn thuỷ nguyệt lung sa/ Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia./ Thương nữ bất tri vong quốc hận/ Cách giang do xướng Hậu đình hoa (Khói lồng nước sông lạnh, trăng lồng cát/ Đêm đậu thuyền ở bến Tần Hoài cạnh quán rượu/ Ca nữ không biết nỗi hờn mất nước/ Bên kia sông còn hát khúc Hậu đình hoa). Hẳn là người ca nữ vô danh ấy nào có biết, rằng khúc nhạc mà nàng đang hát, từ phía bên kia sông, đã chấp chới bay sang đến tận bến thuyền này. Giữa cái mông mênh huyền ảo của sương khói đan cuộn vào nước sông lạnh, bóng trăng lồng bãi cát dài, khúc Hậu đình hoa nức tiếng cung đình xưa, gợi nhắc những cuộc đàn điếm đến nỗi mất nước của Trần Hậu Chủ - vị Vua cuối cùng của triều đại nhà Trần thời Nam - Bắc triều, lảnh lót vang lên làm thổn thức tấc lòng của kẻ sĩ ái quốc. Tiếng hát ấy, khúc Hậu đình hoa ấy, trong suốt nhiều năm, có lẽ đã cất lên hằng đêm để phục vụ những tửu khách lỡ đường, và rất có thể sẽ còn cất lên vào đêm mai, đêm kia hay một đêm nào đó nữa. Nhưng chính vào cái đêm Đỗ Mục neo thuyền ở bến Tần Hoài, tiếng hát ấy trở thành một thanh âm huyền thoại, tương vang vào hồn thi nhân để rồi mời gọi mấy trăm năm lịch sử cùng thức dậy, khơi động những mối sầu cảm cho quá vãng và cho cả thực tại. Âm thanh ấy bay ra giữa bến sông, bước vào Bạc Tần Hoài để rồi đi vào cõi mênh mông của vĩnh cửu.

Ở Nhật, thơ Haiku dù rất ngắn, chỉ có 17 âm tiết, song vẫn luôn có ý thức dựng tạo một khoảng không đủ rộng cho những thanh âm kì diệu vang đi. Những vọng âm trong thơ Nhật thường là tiếng nói của đồng hoang, rừng sâu, suối thác, của những loài côn trùng, sâu bọ, chim chóc, những tiếng động bé nhỏ, vi tế đến nỗi chỉ cần một thoáng vô ý, ta cũng có thể bỏ qua. Tuy nhiên, không vì lẽ ấy mà những âm thanh kia không thể truyền tỏa ra mênh mông. Trong cảm nghiệm của những thi nhân Nhật Bản, những thanh âm như thế ngược lại mới chính là thứ có sức vang động lớn lao, bởi chúng là tiếng nói tự tính của một nhiên giới đượm vẻ thiền. Người ta khó quên được tiếng nước xao như tiếng vũ trụ vọng vang khi con ếch nhỏ nhảy vào ao cũ, hay tiếng ve cô tịch thấu xuyên qua đá núi để bay ra thinh không trong thơ Basho. Và người ta cũng không khỏi ngạc nhiên, một nỗi ngạc nhiên vui sướng, khi nghe tiếng con ếch của Issa, con ếch đã cất tiếng hát như cái cách Saigyô, một thi tăng nổi tiếng cuối thời Heian, thả thơ thiền vào đất trời: Con ếch bên hồ/ ngồi yên ca hát/ như là Saigyô (Nhật Chiêu dịch).

Nhưng thế giới linh thiêng của âm thanh không dừng lại ở những khoảng mênh mông hữu hình như thế. Chẳng phải là vô ý khi những sách vở Trung Hoa xưa thường nhắc đi nhắc lại một ngữ đoạn đã trở thành kinh điển: “huyền ngoại chi âm”. Sự huyền vi của một âm thanh đôi khi không nảy nở trong lúc nó bắt đầu phát ra, loang đi và bay vào đôi tai thế gian, mà lại hiển lộ ở chính cái lúc nó hóa thành một ngọn gió câm lặng thổi về phía hư không. Im lặng hay hư không cũng là một khoảng mênh mông. Nhưng cái mênh mông ấy không là gì khác ngoài cái cõi vô hình sâu thẳm mà từ đó, những thứ hữu hình được tạo sinh và nuôi nấng. Nói cách khác, chính trên con đường trở về với nguồn cội của hiện hữu, một âm thanh sẽ bùng vỡ sức mạnh huyền diệu của mình.

Nhưng nói đi cũng phải nói lại. Trộm nghĩ, có cần phải viện dẫn những lời khó nhằn xa xôi của thánh hiền như thế làm chi đâu. Đời sống này luôn biết cách cho ta những con đường giản dị hơn để thâm nhập vào căn nguyên của tất cả. Giống như trong một buổi trưa hè đầy nắng nào, trên chiếc xuồng ba lá mỏng mảnh trôi lững lờ giữa những rặng dừa nước rũ bóng, chúng tôi nghe một tiếng hò phù sa bay chấp chới giữa đất trời sông Hậu. Âm thanh ngọt lịm, trong vắt, lửng lơ đôi phút giữa lưng chừng sóng nước rồi vút lên, mất hút giữa một cõi ruộng vườn bát ngát. Hồn phách của chúng tôi cũng theo câu hò miền Tây bay đi đâu…

Tháng 8/2018

N.Đ.M.K