Thứ Ba, 11/11/2025 17:47

Vẻ đẹp giản dị của Hồ Chí Minh từ góc nhìn nghệ thuật

Nhìn từ nghệ thuật, việc học tập và làm theo Bác không còn là khẩu hiệu hay nhiệm vụ, mà trở thành một hành trình đi tìm cái đẹp

 Giữa những biến động dữ dội của thời đại, không phải ngẫu nhiên hình tượng Hồ Chí Minh vẫn trở đi trở lại trong thi ca, hội họa, âm nhạc… như một mạch nguồn trong trẻo. Các nghệ sĩ, những người luôn nhạy cảm nhất với mọi rung động tinh thần, vẫn tìm thấy nơi Người một ánh sáng để hướng đến. Điều đó cho thấy tấm gương đạo đức và phong cách của Bác không chỉ thuộc về lịch sử, mà còn là vẻ đẹp văn hoá, vẻ đẹp mĩ cảm. Từ văn chương đến nghệ thuật tạo hình, từ giai điệu đến điện ảnh, hình tượng Hồ Chí Minh luôn xuất hiện với một phẩm chất xuyên suốt. Đó là sự nhân ái, giản dị và liêm chính, toả ra từ bên trong, một vẻ đẹp của cốt cách, của phẩm chất.

Bác Hồ trong câu thơ tiếng hát, hội hoạ

Trong thơ ca Việt Nam hiện đại, hiếm có hình tượng lãnh tụ nào được khắc hoạ như Bác Hồ. nhà thơ Tố Hữu không chỉ gọi Bác là “mặt trời” của cách mạng, mà còn nhìn Người bằng ánh mắt của một người làm thơ, cảm nhận được vẻ nhân ái ấm áp: Mặt trời chân lý chói qua tim/ Hồn tôi là một vườn hoa lá/ Rất đậm hương và rộn tiếng chim... Ánh sáng ấy không được mô tả bằng quyền lực, mà bằng thứ tình cảm rất người, một sự xuất hiện khiến thế giới quanh mình trở nên nhân hậu hơn.

Hay với Viễn Phương, hình ảnh mặt trời cũng được sử dụng nhưng ở một sắc thái khác: Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng/ Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ. Hai câu thơ dựa trên cấu trúc song trùng của hình ảnh, đặt mặt trời của thiên nhiên bên cạnh mặt trời của dân tộc. Tầng nghĩa đầu là tả thực, mỗi buổi sớm ở Ba Đình, ánh mặt trời rọi qua mái lăng. Nhưng chỉ một chuyển động tinh tế của câu thơ từ “mặt trời” thứ nhất sang “mặt trời thứ hai” đã đưa toàn bộ hình ảnh vào trường nghĩa thiêng liêng. Các nhà thơ cách mạng thường dùng mặt trời như biểu tượng của ánh sáng, cách mạng, sự sống. Nhưng ở Viễn Phương, hình ảnh này đặc biệt giàu cảm xúc vì được đặt trong không gian viếng lăng, nơi thời gian dường như chậm lại. Cái “đi qua” của mặt trời tự nhiên đối lập với cái “trong lăng”. Đó là sự vĩnh cửu của Bác trong lòng dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm nông dân tỉnh Bắc Kạn đang thu hoạch lúa mùa năm 1950. (Ảnh: Tư liệu/TTXVN)

Nhà thơ Nguyễn Đức Mậu lựa chọn những hình ảnh rất đỗi bình thường: hàng râm bụt, con bướm trắng, chùm ổi chín… trong bài thơ Vềt hăm nhà Bác: Về thăm nhà Bác, làng Sen/ Có hàng râm bụt thắp lên lửa hồng/ Có con bướm trắng lượn vòng/ Có chùm ổi chín vàng ong sắc trời/ Ngôi nhà thuở Bác thiếu thời/ Nghiêng nghiêng mái lợp bao đời nắng mưa/ Chiếc giường tre quá đơn sơ/ Võng gai ru mát những trưa nắng hè. Nhưng chính sự “bình thường” ấy mới là cánh cửa đưa người đọc đến với phẩm chất giản dị của Bác. Những hình ảnh này không phải là những biểu tượng lớn lao; chúng là những chi tiết đồng quê thân thuộc ở bất cứ làng quê nào. Nhưng khi đặt vào không gian “nhà Bác”, chúng trở thành gợi ý về nguồn gốc mộc mạc của một con người vĩ đại. Tất cả những hình ảnh này dựng lại một thế giới đơn sơ mà ấm áp, nơi tạo nên nếp sống giản dị, chân thành chính là mạch nguồn làm nên nhân cách Hồ Chí Minh. Cụm từ “nghiêng nghiêng mái lợp” khắc họa một ngôi nhà nghèo, cũ, nhỏ, phải oằn mình trước bao “nắng mưa” của thời gian. Nhưng nhà thơ không bi lụy; cái “nghiêng nghiêng” ấy lại gợi sự bền bỉ, gian khổ mà vẫn đứng vững vàng như chính phẩm chất của Bác: chất Nghệ gió Lào mưa nắng nhưng kiên gan, chịu đựng, mộc mạc mà sâu bền. Giường tre, võng gai, những vật dụng thô sơ nhất, giản dị nhất của đời sống. Chúng không chỉ cho biết về hoàn cảnh nghèo khó thuở nhỏ của Bác, mà còn soi chiếu cách Người giữ nếp sống giản dị đến cuối đời: một người đứng đầu dân tộc mà vẫn chọn nếp ăn nếp ở như người dân bình thường. “Võng gai ru mát” mang sắc thái nhân văn, trong sự khắc nghiệt của nắng hè Nghệ An, chiếc võng gai vẫn “ru mát” tuổi thơ Người. Đó là vòng tay của quê hương, cái mát lành của tình đất, tình người. Chính từ sự mát lành ấy mà Bác lớn lên với tấm lòng thương dân như gốc rễ, chứ không phải như một bậc vĩ nhân được uốn nắn trong nhung lụa.

Trong âm nhạc và thơ ca về Hồ Chí Minh, có một hướng tiếp cận khiến người nghe, người đọc cảm nhận sâu hơn, thay vì phác một chân dung vĩ đại bằng những từ ngữ, hình ảnh lớn lao, nhiều nhạc sĩ và nhà thơ tìm về những hình ảnh đời thường, giản dị. Những chi tiết rất nhỏ bé, đời thường mà đậm tình người. Từ những bài hát như Từ làng Sen, Đêm nghe hát đò đưa nhớ Bác đến Tiếng hát giữa rừng Pác Bó…, người nghệ sĩ chọn không gian thân thuộc, âm hưởng dân ca, những cử chỉ đời thường để đặt Bác vào đó. Cách nhìn ấy không làm giảm đi tầm vóc lịch sử của Người; trái lại, nó làm cho sự vĩ đại trở nên gần gũi, dễ hiểu, đồng thời giàu sức cảm hóa.

Phong cách Hồ Chí Minh như là một mĩ học

Phong cách của Bác không chỉ là cách làm việc mà còn là một mĩ học. Mĩ học của sự giản dị, trong trẻo và sâu sắc.

Ở phương diện ngôn ngữ, Bác để lại cho văn học Việt Nam nhiều bài học về “ngôn từ trong sáng”. Tuyên ngôn Độc lập là văn kiện chính trị, nhưng cấu trúc chuẩn xác, sự cô đọng và nhịp điệu trong văn phong khiến nó mang vẻ đẹp của một tác phẩm văn chương lớn. Còn trong Nhật ký trong tù, thơ của Bác đạt đến sự tiết chế hàm súc của thiền học: rất ít chữ nhưng ánh sáng nội tâm lại rất lớn. Điều đó cho thấy tư duy nghệ thuật của Bác đơn giản để chạm vào bản chất cốt lõi của vấn đề.

Phong cách ứng xử của Bác cũng mang dáng dấp thẩm mĩ. Hình ảnh Bác ngắm trăng trong tù, trồng cây bên nhà sàn, hay làm những công việc đời thườn là những chi tiết gợi liên tưởng đến một người nghệ sĩ của đời sống. Đó là một người hiểu rằng cái đẹp nằm trong sự điều hoà giữa tâm và cảnh. Đây không phải vẻ đẹp nhân tạo mà là vẻ đẹp của chính đạo, từ trong sáng mà ra, từ ngay thẳng mà sinh.

Nhìn từ nghệ thuật, việc học tập và làm theo Bác không còn là khẩu hiệu hay nhiệm vụ, mà trở thành một hành trình đi tìm cái đẹp. Cái đẹp ấy đến từ ba điều: Thứ nhất, sống nhân ái, lấy người làm gốc. Trong thơ, Bác là con người dành trái tim cho trẻ em, cho những thân phận bé nhỏ. Học theo Bác là học cách quan tâm những điều tưởng nhỏ bé: một lời hứa, một sự tử tế... Thứ hai, giữ đời sống tinh thần trong sáng. Giữa thời đại ồn ã, học phong cách giản dị của Bác là học cách sống sâu sắc, sống thật, không chạy theo hào nhoáng. Đó cũng là cách giữ mình trong trẻo để không bị cuốn vào những xô lệch méo mó của mọi cám dỗ. Thứ ba, tự rèn luyện và sáng tạo không ngừng. Bác đọc, viết, học ngoại ngữ đến cuối đời. Người nghệ sĩ hôm nay càng cần tinh thần đó: dám nghĩ, dám thử nghiệm, dám đổi mới nhưng luôn giữ giá trị đạo đức làm gốc.

Trong văn học và nghệ thuật, Hồ Chí Minh không chỉ hiện lên như một vĩ nhân mà như một vẻ đẹp. Đẹp ở tấm lòng, ở nếp sống, ở sự tự nhiên dung dị mà cao cả. Học và làm theo Bác, vì thế, không chỉ là học đạo đức hay phong cách, mà là học một cách sống đẹp một cách sống mà nghệ thuật Việt Nam đã nhiều lần soi rọi và khẳng định. Những ánh sáng trong thi ca, âm nhạc về Bác chính là lời nhắc rằng: điều khiến chúng ta kính trọng Người nhất, vẫn luôn là ánh sáng nhân văn tỏa ra từ sự giản dị và trong sạch. Và khi ta noi theo ánh sáng ấy, ta đang chọn con đường để trở thành một con người đẹp hơn và để đất nước này đẹp hơn.

Nét giản dị của Bác Hồ từ góc nhìn nghệ thuật

Trước hết, việc nghệ sĩ chọn nét giản dị là một quyết định nghệ thuật có ý nghĩa nhận thức. Những hình ảnh làng quê, bếp lửa, búp sen, câu hò, tiếng sáo… không phải là những biểu tượng hào nhoáng nhưng làm nên một “bối cảnh nhân tính” cho nhân vật lịch sử. Khi người nghe thấy Bác trong một ngôi nhà nhỏ, nghe giọng ru, đi nghe hát, họ không chỉ cảm nhận một sự kính trọng đơn thuần mà bắt gặp một mối liên hệ tình cảm. Mối liên hệ ấy là chất xúc tác khiến nghệ thuật rung động. Nó chuyển hóa từ cái nhìn tôn thờ sang trải nghiệm đồng cảm, ta thấy được bản thể của Người như cùng chung nguồn mạch với người dân bình thường chứ không ở trên cao, cách biệt.

Bác Hồ với cháu nhi đồng ở Việt Bắc (năm 1950). Ảnh tư liệu

Những cử chỉ nhỏ như hỏi chuyện một cụ già, xoa đầu một em bé, dém màn cho chiến sĩ là những hành động cụ thể, dễ hình dung, và vì vậy có sức biểu cảm lớn. Chúng vừa là thực tại sinh hoạt vừa là chỉ báo đạo đức. Một con người lớn lao nếu sống bằng những quan tâm rất nhỏ sẽ tạo ra một chuỗi liên tưởng, từ hành động cụ thể tới phẩm chất nhân cách. Hỏi chuyện một cụ già không chỉ là một cử chỉ xã giao mà còn là tôn trọng, biết lắng nghe; xoa đầu một em bé là biểu hiện của yêu thương, an ủi; dém màn cho chiến sĩ là sự sẻ chia giữa những người đồng cam cộng khổ. Tập hợp những hành vi ấy vẽ nên một khuôn mẫu đạo đức: khiêm tốn, chăm sóc, gần gũi, và giản dị ở lối sống. Đó là phẩm chất không cần tuyên xưng mà được thể hiện trong từng phút giây đời sống, và chính tính liên tục của những phút giây ấy làm nên chiều sâu của nhân cách Bác Hồ.

Nghệ thuật, ở khía cạnh này, hoạt động như một phép soi. Nó khai thác những chi tiết đời thường để chiếu rọi bản chất con người. Khi nghệ thuật bắt gặp cái chân thật, tức là những hành vi, cảm xúc, hoặc hoàn cảnh không bị tô vẽ, nó dễ dàng chạm vào cảm thức đại chúng. Người sáng tác chọn các chi tiết giản đơn không phải vì thiếu tài năng phác họa sự vĩ đại, mà vì họ hiểu rằng lòng người dễ lay động bởi những điều có thể cảm nghiệm được. Một câu hát về chiếc võng, một hình ảnh về hàng râm bụt hay một khoảnh khắc chia bữa ăn đều có khả năng đưa người nghe từ sự ngưỡng mộ sang sự thương mến, một trạng thái gắn kết bền hơn, sâu hơn.

Hơn nữa, nhìn nhận Bác qua lăng kính giản dị còn có ý nghĩa lịch sử và giáo dục. Ở đó, hình tượng lãnh tụ không bị tách rời khỏi cộng đồng nguồn cội; thay vào đó, Người vừa là người dẫn đường vừa làm nên một nét văn hóa, một lối sinh hoạt dân gian. Khi phẩm chất đạo đức được phơi bày qua những chi tiết thường nhật, thế hệ sau dễ tiếp nhận và bắt chước: đức tính chẳng phải là điều trừu tượng mà là chuẩn mực sống có thể thực hành. Do đó, nghệ thuật không chỉ tôn vinh mà còn giáo dục bằng hình tượng gần gũi, khả thi.

Cuối cùng, sự giản dị trong cách tôn vinh cũng là một cách giữ sự chân thực cho kí ức tập thể. Những bài hát, khúc ca hay bài thơ nói về Bác bằng ngôn ngữ đời thường trở thành cầu nối giữa lịch sử và hiện tại; chúng không phai nhạt theo thời gian vì chúng dựa trên cảm nhận con người, không dựa trên chỉ số hay thành tích. Đó là lí do vì sao, trong vô số tác phẩm viết về Hồ Chí Minh, những bản nhạc và bài thơ chọn tả những cử chỉ nhỏ lại bền lòng người hơn bởi trong cái giản dị ấy, người đọc, người nghe tìm thấy chính mình và tìm thấy đức hạnh cần gìn giữ.

Tóm lại, việc nghệ sĩ chọn vẻ đẹp giản dị, gần gũi để ca ngợi Bác không làm giảm đi cái lớn lao; ngược lại, nó làm cho sự vĩ đại trở nên sống động, gần gũi và có khả năng lưu truyền. Đạo đức của một con người được phô diễn bằng những quan tâm rất nhỏ không chỉ là phẩm chất cá nhân mà còn là nguồn mạch nghệ thuật, khiến nghệ thuật thực sự rung động khi bắt gặp điều chân thật.

NGUYỄN THỊ THU HÀ