Chúng tôi gặp ông tại Moscow. Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Nga tham gia công tác tại Việt Nam đứng ngẩn người ngắm những bộ quân phục chúng tôi đang mặc, mắt hừng lên rồi bất ngờ nói tiếng Việt: “Chào các đồng chí!”
Ông đưa tay ra. Bàn tay dày ấm siết chặt với từng thành viên. Và giữ lâu. Chỉ cần thế, những người lính của hai đất nước, hai thế hệ đã thiết lập được một cuộc chuyện trò cởi mở.
VNQĐ: Thưa ông Nikolai Kolesnik, cơ duyên nào đưa ông vào lực lượng tên lửa?

Ông Nikolai Kolesnik
Ông Nikolai Kolesnik: Có thể nói là từ năm lớp 8, tôi đã nhặt nhạnh dây đồng, chì, lưu huỳnh... và mày mò tự chế được một chiếc máy phát thanh trên sóng ở tần số trung bình. Ở Donbass quê tôi ngày đó có nhiều cậu bé có máu sáng tạo như vậy. Tháng 2/1960, tôi đọc báo thấy có tin Trường Kĩ thuật số 15 tuyển sinh ngành Điều chỉnh tín hiệu tự động hóa và thông tin liên lạc nên đã đăng kí vào học. Sau một năm, tôi tốt nghiệp và được chỉ định vào làm việc tại Phòng vận hành Gorlovka. Tháng 11/1963 tôi được gọi nhập ngũ. Do có chuyên môn vô tuyến điện, tôi được biên chế vào Trường Trung sĩ đóng ở Veshnyaki, Moscow. Tôi được đào tạo ngạch hạ sĩ quan tên lửa phòng không S-75 Dvina mà Việt Nam sau này gọi là SAM-2.
VNQĐ: Đó là tiền đề để ông đến Việt Nam?
Ông Nikolai Kolesnik: Đúng thế. Ngày 30/10/1964, tôi được điều về Trung đoàn tên lửa phòng không Cận vệ Putilov - Kirov của Lenin. Trung đội của tôi đã tham gia nhiều buổi huấn luyện đạt thành tích tốt, và tôi được thông báo sẽ có một kì phép thưởng. Nhưng rồi, thay vì 10 ngày phép thăm nhà, tôi cùng với 80 người ở các đơn vị xung quanh Moscow được lệnh tập trung chuẩn bị cho một nhiệm vụ đặc biệt.
Đó là những ngày cuối tháng 5/1965. Chúng tôi tập trung tại trại Mitin, được huấn luyện kĩ một số khoa mục và rèn luyện thể lực. Hai ngày trước khi khởi hành, chúng tôi mỗi người được phát một chiếc va li da, lương khô đủ dùng trong ba ngày, và quần áo thường dân. Đúng ngày khởi hành chúng tôi mới được cấp hộ chiếu sang Việt Nam.
Sau bữa trưa chia tay những sĩ quan chỉ huy, chúng tôi lên một chiếc AN-10B. Sau nhiều giờ bay và mấy chặng dừng nghỉ ở Mông Cổ, Trung Quốc, chúng tôi đã vào không phận Việt Nam. Qua cửa sổ máy bay, chúng tôi thích thú ngắm nhìn những dãy núi và những khu rừng uốn lượn trập trùng. Rồi đến những cánh đồng dưới nắng ánh lên màu xanh ngọc lục bảo. Khi máy bay hạ độ cao, tôi đã nhìn thấy những người đội nón lá đang làm việc cạnh những cây nấm khổng lồ mà sau này tôi mới biết đó là những cây rơm để làm thức ăn cho trâu bò và nhiên liệu đun bếp.
VNQĐ: Việt Nam chào đón các chuyên gia Liên Xô thế nào?
Ông Nikolai Kolesnik: Có thể nói, chúng tôi được chào đón ngay từ… trên trời. Những người nông dân khi thấy máy bay đã dừng tay, ngước lên vẫy nón.
Khi hạ cánh xuống sân bay Gia Lâm, đón chúng tôi là những người lính Quân đội nhân dân Việt Nam. Tiệc trà diễn ra ở một địa điểm gần sân bay, dưới những cái ô được làm từ vải dù Mĩ căng trên những cây tre. Những câu “tên anh là gì,” “bao nhiêu tuổi”, “có vợ con chưa”… được những người lính Việt Nam dùng như một nghi thức chào hỏi. Cuộc giao lưu tuy ngắn đầy ắp tiếng cười. Và cuối buổi, tôi đã nói được mấy câu tiếng Việt: “xin chào”, “cám ơn”, “chúc sức khỏe”…
Sau buổi, chúng tôi lên xe di chuyển. Phong cảnh hai bên đường với những rặng cây và cánh đồng phẳng phiu tương đối yên bình hài hòa. Dọc đường, chúng tôi bị một tổ an ninh chặn lại kiểm tra. Khi xem giấy tờ, người tổ trưởng mỉm cười thông báo, đoạn đường phía trước mới bị đánh bom đêm qua, và hướng dẫn cho xe đi đường tránh. Con đường ấy đi xuyên qua nhiều làng mạc, cầu cống, đê điều, rồi thành phố Hà Nội.
VNQĐ: Ấn tượng của ông về Thủ đô của Việt Nam khi đó?
Ông Nikolai Kolesnik: Một thành phố nhộn nhịp. Thanh thiếu niên tràn ra đường. Dường như chiến tranh không ngăn cản được họ vui chơi và yêu nhau. Về khuya, ở mép vỉa hè dưới những mái hiên có nhiều người nằm ngủ. Tôi hỏi và được biết thời tiết Hà Nội đang rất nóng. Những ngôi nhà xây bằng gạch và bê tông hấp thụ nhiệt ban ngày và phả nó ra vào ban đêm nên ở trong nhà rất ngột ngạt.
Điều này được kiểm chứng khi chúng tôi đến nơi nghỉ. Ngôi nhà hầm hập như một lò nướng bánh mì khiến quần áo chúng tôi ướt sũng mồ hôi. Muỗi tấn công dữ dội. Chúng tôi nói đùa với nhau rằng muỗi Việt Nam không chỉ có thể cắn thủng quần áo, mà còn có thể cắn thủng đế giày. Sáng ra chúng tôi ai cũng toàn thân ngứa ngáy, nổi nhiều vết mụn.
Ngay sáng ấy, chúng tôi được nhận quân tư trang, trong đó có một thứ đặc biệt: dép cao su. Ban đầu tôi coi thường thứ này, bởi đôi dép chỉ với cái đế mỏng và vài sợi dây quai thưa thớt làm sao bảo vệ được bàn chân bằng giày da. Nhưng sau này, qua thực tế tôi mới biết đôi dép cao su vô cùng tiện lợi. Nó giúp tôi băng qua đá sắc và gai nhọn trong bất cứ thời tiết và địa hình khô cằn hay lầy lội; giúp bàn chân của tôi luôn khô ráo trong giờ huấn luyện hay cả lúc chiến đấu.
VNQĐ: Những ngày đầu sang Việt Nam, ông có nhớ nhà, nhớ quê hương?
Ông Nikolai Kolesnik: Mấy ngày đầu thì không. Nhưng một đêm khuya Hà Nội, tôi bị đánh thức bởi những tiếng gõ chát chúa từ một thanh sắt vào vỏ một quả bom đã bị moi hết ruột. Tôi bật dậy, nhảy qua những cửa sổ không có chấn song đang mở. Tôi nghe thấy một tiếng hú lạnh lẽo từ trên cao dội xuống. Đầu tôi lóe lên ý nghĩ: “Bom!” Tôi lao vào một bãi cỏ ẩm ướt và chụp vội mũ sắt lên đầu, bàn tay ôm chặt tai. Tôi nằm trong trạng thái tê liệt một khoảng thời gian dài chờ đợi một tiếng nổ lớn. Nhưng không, chỉ có những chớp lóe và những vệt đạn phòng không đang dệt vào nền trời đêm một lưới lửa rực rỡ. Và rồi một tiếng bụp nổ lẻ loi trên cao. Ngước lên, tôi thấy một quả cầu lửa to đang trôi về phía chân trời. “Máy bay bị bắn hạ”, ý nghĩ ấy lóe lên trong đầu, tôi căng mắt dõi theo cho đến khi nó rơi xuống đất tạo nên một chớp lóe trong giây lát. Và tôi lặng lẽ trở về phòng, nằm thao thức mãi không ngủ được. Tôi nhận ra mình đang tham gia vào một cuộc chiến tranh mới. Cuộc chiến này khiến tôi liên tưởng tới cuộc chiến tranh của đất nước tôi với phát xít Đức. Và nỗi nhớ nhà, nhớ quê bùng lên dữ dội. Tôi nhớ mẹ tôi, một người vợ lính đã lặng lẽ mang thai, sinh con và chờ chồng. Cha tôi, Nikolai Dmitrievich, một trung sĩ cận vệ của Lữ đoàn xe tăng 186 chỉ về nhà một lần khi tôi tám tháng tuổi. Mẹ tôi kể, cha tranh thủ về ôm tôi mấy phút rồi vội vàng trở lại đơn vị. Và ông đã ngã xuống vào ngày 30/10/1944 khi chiến đấu giải phóng thành phố Liapaja của đất nước Latvia khi vừa 20 tuổi… Ở một đất nước xa xôi, nỗi nhớ nhà thật kinh khủng. Rất may, tôi nhanh chóng nhận nhiệm vụ, và nỗi nhớ nguôi đi.
VNQĐ: Ông bắt đầu nhận nhiệm vụ huấn luyện đào tạo ngay?
Ông Nikolai Kolesnik: Vâng, ngay trong tuần đầu, chúng tôi cơ động về Hà Đông. Những thiết bị từ Liên Xô đã được gửi sang. Chúng tôi tháo dỡ, kiểm tra chức năng của hệ thống và bắt đầu nhiệm vụ với một yêu cầu cấp bách: Đào tạo một trung đoàn tên lửa cho Quân đội nhân dân Việt Nam trong vòng 3 tháng. Chúng tôi làm việc với một bộ khung đã được thành lập trước mang tên Tiểu đoàn 61, do Đại úy Hồ Chí Hưu làm Tiểu đoàn trưởng. Anh Hưu nói và viết tiếng Nga khá lưu loát, bởi đã được đào tạo và tốt nghiệp chỉ huy quân sự phòng không ở Liên Xô năm 1964.

Các chuyên gia tên lửa Liên Xô và bộ đội Việt Nam ở Trại Cau, Thái Nguyên. Ảnh: TL
VNQĐ: Phương pháp lên lớp của các chuyên gia như thế nào? Và vị trí huấn luyện của ông?
Ông Nikolai Kolesnik: Để dễ hình dung, cần phải nói một chút về hệ thống tên lửa S-75. Cấu trúc gồm trung tâm chỉ huy, đài điều khiển bắn với radar dẫn đường RSNA-75 ở giữa; 6 bệ phóng được bố trí xung quanh theo hình bông hoa. Theo phân cấp, các sĩ quan tên lửa Liên Xô sẽ truyền đạt cho các sĩ quan Việt Nam phụ trách trung tâm chỉ huy, đài vô tuyến và radar điều khiển. Ở các bệ phóng là công việc của chúng tôi, những hạ sĩ quan. Nhiệm vụ của tôi là trực tiếp truyền đạt kiến thức và thị phạm các yếu lĩnh động tác cho các thành viên trung đội. Trung đội trưởng của tôi là Trung úy Huỳnh Văn Thanh, quê ở Sài Gòn. Anh ấy nổi bật giữa những người khác bởi vóc dáng lực lưỡng nhưng vô cùng nhanh nhẹn. Thành viên của trung đội như Sin, Lai, Tiến... là những hạ sĩ quan đã từng chiến đấu trong các quân binh chủng đặc công, pháo binh, tăng - thiết giáp…, được tuyển chọn kĩ lưỡng nên đều có những tố chất vượt trội về văn hóa và trí tuệ.
VNQĐ: Những khó khăn nào các chuyên gia gặp phải trong quá trình huấn luyện?
Ông Nikolai Kolesnik: Thiết bị chiến đấu được triển khai tới một địa điểm, ngụy trang khéo léo. Các kíp chiến đấu ở trong các lều bạt và các mái nhà tranh. Hàng ngày chúng tôi phải thức dậy vào lúc 5 giờ, ăn sáng với khẩu phần đạm bạc gồm cơm, rau và một chút ít thịt cá rồi nhanh chóng bước vào học tập từ 5 giờ 30 tới 12 giờ. Phương châm huấn luyện là học lí thuyết tới đâu thì thực hành ngay tại thực địa. Từ 12 giờ tới 14 giờ, thời điểm nóng nhất trong ngày, nghỉ trưa. Từ 14 giờ tới 17 giờ 30, các lớp tiếp tục ôn tập và làm bài kiểm tra; ăn tối lúc 18 giờ, nghỉ ngơi một chút rồi tự học tới 22 giờ.
Khó khăn lớn nhất khi ấy là thiếu người phiên dịch. Những sĩ quan Việt Nam giỏi tiếng Nga nhất được huy động. Thế nhưng tên lửa phòng không là một lĩnh vực có nhiều thuật ngữ, kí kiệu mới, các phiên dịch viên rất vất vả, phải tự học thêm ngày đêm mới có thể chuyển tải được những nội dung cơ bản. Để khắc phục, các chuyên gia phải tự học tiếng Việt, và các chiến sĩ Việt Nam cũng cố gắng học tiếng Nga. Tôi nhanh chóng học được các khẩu lệnh, tên gọi của những bộ phận trên thiết bị, chẳng hạn như: “sẵn sàng”, “lên”, “xuống”, “nhanh hơn”, “chậm hơn”, “tiến lên”, “lùi lại”, “nhiều”, “ít”…
VNQĐ: Ông thấy tinh thần học tập của bộ đội tên lửa Việt Nam thế nào?
Ông Nikolai Kolesnik: Cực kì cao! Họ tự giác học tập và thảo luận sôi nổi. Có lần tôi chứng kiến một cuộc trao đổi giữa hai sĩ quan Việt Nam trong cabin điều khiển. Hiền chỉ vào nút có chữ “quay lại” trên bảng điều khiển và hỏi Phát nút này dùng để làm gì. Phát trả lời: “Có lẽ để… thu hồi tên lửa về bệ phóng trong trường hợp không bắn trúng máy bay?” Vừa nói Phát vừa dùng tay vẽ một quỹ đạo bay với một điệu bộ rất hồn nhiên. Nghe lời giải thích, các chuyên gia không nhịn được cười. Cười rũ rượi trước sự ngơ ngác của hai sĩ quan Việt Nam. Cười xong một sĩ quan Liên Xô mới giải thích: “Các đồng chí quý mến ơi! Nút ấy dùng để lái tên lửa bay vòng lại đuổi theo máy bay trên không, chứ không phải để thu hồi tên lửa về bệ phóng. Bởi nếu như thế, với quả đạn chứa gần 200kg thuốc nổ, tất cả chúng ta sẽ… bay lên thiên đường!”
VNQĐ: Nghe ông kể thì việc huấn luyện tuy vất vả nhưng rất vui vẻ?
Ông Nikolai Kolesnik: Những ngày đầu thì vui. Nhưng rồi không quân Mĩ bất ngờ tăng cường oanh kích miền Bắc, có ngày tới 200 phi vụ khiến lực lượng pháo phòng không quá tải. Các vị trí giáp vĩ tuyến 17 và các tỉnh giáp biên giới phía Tây, máy bay ném bom mặc sức ngông nghênh. Trước tình hình đó, kế hoạch huấn luyện cho trung đoàn tên lửa số 1 đã phải rút ngắn, từ 3 tháng xuống còn 1 tháng. Mục đích trước mắt là kịp thời trừng trị sự lộng hành của máy bay Mĩ. Và mục đích thứ hai, quan trọng hơn: Bộ Chỉ huy tối cao đã nắm được thông tin Mĩ đang xây dựng một kế hoạch nhấn chìm Hà Nội trong biển nước bằng cách đánh bom vào các đập nước lớn và những tuyến đê mùa lũ. Vì vậy trung đoàn tên lửa số 1 được giao nhiệm vụ nhanh chóng lên phương án bẻ gãy ý đồ thâm hiểm này.
Vào cuối tháng 7/1965, chúng tôi xây dựng trận địa ở một vị trí gần quốc lộ 32, cách Hà Nội 35km về phía Tây và tiếp tục huấn luyện. Nắng nóng và tiếng máy bay gầm rít khiến không khí cực kì căng thẳng. Lệnh trực chiến 24/24. Các sĩ quan vô tuyến và điều khiển phải nhốt mình trong cabin trong cái nóng lên tới 70 độ, nhiều người đã ngất. Các chiến sĩ phải ở vị trí sẵn sàng từ 12 đến 16 tiếng mỗi ngày. Để giảm bớt căng thẳng, mỗi khi tình hình tạm lắng, chúng tôi tổ chức sinh hoạt văn hóa văn nghệ. Các điệu dân ca dân vũ Nga, Belarus, Hungari… được biểu diễn tại trận địa. Trong đêm nhiệt đới với tiếng ve sầu ran ran và những vì sao lấp lánh trên trời cao, những bài hát Nga như Thanh niên sôi nổi, Chiều bến cảng, Cachiusa… được chúng tôi đồng ca bằng cả tiếng Nga và tiếng Việt. Lãng mạn đấy chứ!
VNQĐ: Trận đánh đầu tiên ông tham gia là tại trận địa đó?
Ông Nikolai Kolesnik: Không. Có lẽ tình báo Mĩ đã nắm được tình hình nên các máy bay tránh hoạt động liều lĩnh ở Hà Nội. Thế nên giữa tháng 8/1965 Sư đoàn 361 được lệnh bí mật cơ động đến xây dựng trận địa phục kích tại một địa điểm gần thị xã Phủ Lý, tỉnh Hà Nam. Chúng tôi tháo dỡ thiết bị đưa lên xe và hành quân ngay trong đêm.
Đoàn xe phải đi vòng vèo theo những con đường đất nhão qua các đồng lúa nên nhiều chiếc bị sa lầy. Những bánh xe quay tít rồi lún dần xuống bùn. Tiếng động cơ gầm rú trong bất lực khiến mọi người lo lắng. Và rồi một ý tưởng tuyệt vời được đưa ra. Một đàn trâu và những cuộn dây chão được đưa đến. Những con trâu cày cực kì uyển chuyển và mạnh mẽ đã hợp lực kéo những chiếc xe thoát khỏi chỗ lầy mà không ồn ào. Chặng tiếp theo chúng tôi phải đi qua một cánh rừng với những dốc cao, suối sâu…, nhưng dưới sự chỉ huy giàu kinh nghiệm của các sĩ quan, đoàn xe đã vượt qua các chướng ngại vật một cách an toàn.
Tối ngày thứ hai chúng tôi ra khỏi rừng. Trước mặt là một con sông rộng nước chảy rất xiết. Chiếc cầu bắc qua sông đã bị phá hủy bởi một trận bom trước đó ít ngày. Những gì còn lại chỉ là những khúc gỗ cháy đen trôi dạt vào bờ. Công binh được điều đến nhanh chóng bắc một chiếc cầu phao và chúng tôi đã vượt qua bờ bên kia an toàn rồi tiếp tục di chuyển suốt đêm.
VNQĐ: Hành quân trong đêm, đoàn có gặp dân?
Ông Nikolai Kolesnik: Ô, đây là một câu hỏi thú vị! Mặc dù cuộc hành quân được cho là bí mật tuyệt đối, nhưng không hiểu sao mỗi ngôi làng chúng tôi đi qua đều thấy dân đứng hai bên đường chào đón. Người lớn trầm trồ ngắm nhìn những quả tên lửa rồi hào hứng bàn luận. Trẻ em mắt long lanh rồi ủn đẩy nhau tiến gần về phía chúng tôi. Chúng rụt rè đưa tay sờ vào chúng tôi rồi cất tiếng cười thích thú. Rồi chúng hô vang: “Liên Xô! Liên Xô! Lê - nin! Hồ Chí Minh!”
Lúc đó tôi đã hiểu mô hình “chiến tranh nhân dân” ở Việt Nam được xây dựng tuyệt vời đến thế nào. Ở bất cứ đâu người dân đều sẵn sàng bảo vệ, giúp đỡ những người lính. Tôi kể chuyện này để minh họa cho điều đó.
Đêm thứ 3, chúng tôi di chuyển đến một địa điểm được chọn. Vị trí này nằm ở một sườn núi thoai thoải, rất thuận lợi cho tầm nhìn toàn cảnh về phía Nam. Tuy nhiên độ dốc 25 độ đã gây khó khăn cho việc xây dựng trận địa. Để cố định các bệ phóng, chúng tôi phải đào những bậc thang trên nền đất cứng nhiều đá bằng cuốc xẻng hoàn toàn trong đêm để che mắt máy bay trinh sát không người lái. Tiếng bom từ thị xã Phủ Lý dội tới ầm ầm. Thị xã này đã bị đánh phá nhiều lần, dân cư sơ tán hết nhưng không quân Mĩ vẫn lấy địa bàn đổ nát này làm bãi tập cho các cuộc không kích ban đêm. Đèn dù được thả, soi rõ những mục tiêu giả định. Máy bay lao tới trút bom rồi rút về như những bóng quạ đen chết chóc khiến chúng tôi rất muốn nhanh chóng hoàn thành trận địa để chiến đấu. Nhưng lực lượng mỏng, không thể làm nhanh hơn. Nhưng trời vừa sáng, chúng tôi bất ngờ khi thấy 300 dân công được huyện ủy Gia Viễn huy động tới giúp chúng tôi. Họ mang tới cuốc xẻng, những chiếc sọt tre, những tấm phản gỗ... Không khí làm việc sôi nổi hẳn lên. Nhìn từ trên cao, giống như một tổ kiến khổng lồ với hàng trăm kiến thợ đang làm việc hối hả. Đến tối thì trận địa hoàn thành.
VNQĐ: Và chiến đấu ngay đêm đó?
Ông Nikolai Kolesnik: Ồ, không. Đêm đó, sau khi chúng tôi thực hiện việc kết nối giữa các cụm của hệ thống, nạp đạn cho các bệ phóng… thì đã 5 giờ sáng. Khi tôi đang đi kiểm tra lần cuối ở các vị trí thì tiếng còi báo động vang lên. “Sẵn sàng chiến đấu!” Lệnh từ điện thoại. Tôi nhìn đồng hồ. Đúng 6 giờ. Đài radar cảnh giới thông báo: Một nhóm mục tiêu đang tiến vào từ phía biển, khoảng cách 240km, sẽ vào tầm bắn trong khoảng 10 phút nữa.
Chúng tôi vào vị trí sẵn sàng. Nhưng tốp mục tiêu này đã vòng bên trái trận địa rồi rút về phía biển. Chừng 20 phút sau, còi báo động lại vang lên. Nhưng máy bay lại rút đi. Bữa trưa, chúng tôi vừa ngồi vào mâm đã phải bật dậy chạy ra vị trí. Rồi lại chạy về ăn. Lại bật dậy… Suốt ngày hôm đó có tới 18 lần chúng tôi đợi lệnh “chuẩn bị phóng” nhưng cũng 18 lần chúng tôi nhận lệnh “bỏ” trong trạng thái vừa hồi hộp vừa thất vọng.
Chúng tôi phán đoán, có thể tình báo Mĩ đã nghi ngờ ta di chuyển trận địa tên lửa S-75 vào Ninh Bình, nhưng chưa rõ vị trí cụ thể nên cho máy bay lượn lờ thăm dò. Nếu chúng tôi nôn nóng hành động, sẽ lộ trận địa.
Đêm thứ hai, máy bay không xuất hiện. Chúng tôi khóa các chốt an toàn, phủ bạt che chắn cho các thiết bị. Sau khi phân công người canh gác, chúng tôi chúc nhau ngủ ngon. Trong khi ngủ, tôi nghe thấy tiếng còi báo động hú lên. Tôi vùng dậy, và nghĩ nhanh, có lẽ tôi mơ do những trận báo động ban ngày đã ám giấc ngủ của tôi. Nhưng không, đó là sự thật. Sĩ quan chỉ huy đã xuất hiện và thúc giục: “Dậy và tỏa sáng đi, các chàng trai!”
Tôi lao về phía bệ phóng, mở khóa chốt. Trong vòng 15 giây, mọi thứ đã sẵn sàng. Các chiến sĩ Việt Nam cũng nhanh chóng vào vị trí. Tiếng báo cáo vang lên dõng dạc: Số 1 sẵn sàng. Số 2 sẵn sàng! Số 3 sẵn sàng! Số 4 sẵn sàng! Số 6 sẵn sàng! Tôi kiểm tra các cáp kết nối giữa đài chỉ huy và bệ phóng, rồi báo cáo sau cùng: “Số 5 sẵn sàng!” Lập tức đài chỉ huy thông báo: “Phương vị 120, tầm bắn 32, chuyển sang chế độ AC hỗ trợ tự động!”
Tôi thông báo cho toàn khẩu đội rồi bật hệ thống đồng bộ. Những quả tên lửa từ từ vươn lên…
Bất ngờ một quả rốc két từ trên không phóng ầm vào trận địa. Tôi ngã chúi xuống đất nhưng vẫn kịp chụp lấy ống nghe. Giọng của thiếu tá Brosko vang lên qua sóng GGS: “Tiêu diệt mục tiêu! Quả 1 phóng!”
Một tiếng nổ rung chuyển mặt đất. Quả tên lửa phóng vút lên không trung, để lại một quầng khói dày đặc. Đá từ trên cao rơi xuống như mưa. May mà đầu chúng tôi được mũ sắt bảo vệ. “Quả hai, phóng!” “Quả 3, phóng!” Hai quả tên lửa nối đuôi nhau lao vút lên trời trong vòng 3 giây. Chúng tôi dõi theo đường bay của chúng và tim như vỡ òa khi mấy quầng lửa liên tiếp bùng lên như pháo hoa giữa trời cao. Giọng của sĩ quan theo dõi mục tiêu, Trung úy Krotanskin vang lên: “Mục tiêu nhóm bị tiêu diệt!”
Bầu trời bừng lên màu cam. Những đám khói màu nâu vẽ ngoằn ngoèo theo quỹ đạo rơi. Bức tranh thật ấn tượng! Nhưng chúng tôi không có thời gian ăn mừng nhiều, mà nhanh chóng thực hiện lệnh nạp đạn.
Nhưng đợi mãi không thấy xe chở tên lửa đến. Tôi lao đi tìm và nhìn thấy chiếc xe đang đỗ bên mé rừng nhưng không thấy tài xế. Tôi nhảy lên cabin, khởi động, vào số định tự lái thì có tiếng kêu oai oái từ dưới gầm xe. Thì ra tài xế trong khi ngủ đã nghĩ tiếng tên lửa phóng là tiếng bom nên không quan tâm.
Chúng tôi đưa chiếc xe TZM vào trận địa, nhanh chóng đưa tên lửa lên bệ phóng và sẵn sàng. Nhưng không còn mục tiêu. 4 máy bay trong đội hình đã bị chúng tôi bắn rơi toàn bộ vào 23 giờ 53 phút ngày 11/8/1965 tại khu vực huyện Gia Viễn tỉnh Ninh Bình. Và ngay lập tức, chúng tôi được lệnh di chuyển. Trên đường cơ động, chúng tôi bất ngờ nhận thấy một trận địa tên lửa nằm ngay cạnh trận địa chúng tôi. Những bệ phóng, tên lửa, ăngten radar, xe chỉ huy… được đan bằng tre và rơm rồi sơn vôi giống hệt một hệ thống S-75 thật. Hệ thống này hoạt động thông qua những sợi dây thừng, được một người nấp ở vị trí an toàn điều khiển. Chúng tôi bật cười vì ý nghĩ trận địa của chúng tôi đã bị một sư đoàn nông dân chiếm đóng.
Ngày hôm sau, khi đã ở một vị trí cách xa Ninh Bình, chúng tôi nhận được tin, Không quân Hải quân Mĩ đã choáng váng vì mất một lúc 4 máy bay A-4 Skyhawk nên đã quyết tâm phục thù. Các máy bay F-105 Thunderchief đã bay thấp theo các sườn núi định đánh úp vào “trận địa S-75”, và rơi ngay vào cái bẫy đã giăng sẵn. 23 khẩu đội phòng không gồm pháo 37mm, 57mm và 100mm giòn giã nhả đạn. 3 “thần sấm” bị hạ. Một trong những phi công đã khai: “Một điều gì thật điên rồ đã diễn ra. Tôi đã nhắm đúng mục tiêu và bổ nhào ném bom Nhưng những bệ phóng tên lửa chỉ rung rinh một chút. Tôi lượn vòng và bổ nhào lần hai thì máy bay trúng đạn. Tôi phóng dù, tiếp đất và bị bao vây bởi những người nông dân với đủ thứ vũ khí thô sơ. Và tôi chỉ còn cách giơ tay lên”.
VNQĐ: Sau trận đầu thắng giòn giã, đơn vị di chuyển đến đâu?
Ông Nikolai Kolesnik: Về Hà Nội trực chiến. Và ngày 26/8/1965 chúng tôi bất ngờ khi thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh tới thăm. Chủ tịch mặc bộ đồ nông dân màu nâu nhạt, đi dép cao su. Chủ tịch bắt tay những quân nhân Liên Xô và nói bằng tiếng Nga: “Chúc mừng các đồng chí đã dùng 3 tên lửa diệt 4 máy bay. Tới đây cần phấn đấu 4 tên lửa diệt 1 máy bay!” Lúc ấy chúng tôi nghĩ Chủ tịch nói đùa nên cười sảng khoái. Nhưng nhìn ánh mắt nheo vui tươi nhưng nét mặt nghiêm nghị, chúng tôi hiểu, Chủ tịch muốn nhắc nhở chúng tôi không được tự mãn, chủ quan. Cuộc chiến đấu của lực lượng tên lửa Việt Nam non trẻ với không quân Mĩ chỉ mới bắt đầu, cần phải cố gắng nhiều hơn. Và thực tế đã chứng minh lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là nghiêm túc. Sau những trận đầu bị bất ngờ, phía Mĩ đã áp dụng chiến thuật Wild Weasel (Chồn hoang), dùng các máy bay F-105F, F105G… trang bị tên lửa Shrike diệt radar và các thiết bị chế áp điện tử để gây nhiễu, phá sóng điều khiển đường đạn tên lửa trước, dọn đường cho các phi đội cường kích vào ném bom. Đội hình và đường bay của các phi đội cũng thay đổi liên tục khiến cho việc bắn hạ một máy bay trở nên cực kì khó khăn. Đã có trận ta phóng tới 9-10 quả đạn không diệt được máy bay nào mà ngược lại, trận địa bị tấn công, trang thiết bị phá hủy, nhiều trắc thủ hi sinh ngay tại cabin, bệ phóng. Tất nhiên, chỉ một thời gian ngắn, bộ đội tên lửa đã tìm được cách hóa giải chiến thuật Chồn hoang. Và hiệu suất chiến đấu lại tăng.
VNQĐ: Vâng, nhưng đó là chuyện về sau. Giờ xin nói tiếp về công việc của ông trong những năm tháng ở Việt Nam.
Ông Nikolai Kolesnik: Khi các kíp chiến đấu Việt Nam ở trung đoàn tên lửa số 1 đã có thể độc lập tác chiến, các chuyên gia trong đó có tôi nhận nhiệm vụ chuyển sang huấn luyện trung đoàn tên lửa số 3 cho Sư đoàn 361. Nhờ đã tích lũy được kinh nghiệm và thực tiễn chiến đấu nên công việc thuận lợi hơn nhiều. Chúng tôi lại nôn nao mong được chuyển sang chiến đấu. Nhưng tháng 3/1966, chúng tôi được thông báo đã hoàn thành nhiệm vụ, chuẩn bị về nước. Nghe lệnh, tôi hụt hẫng vô cùng. Ngày rời đơn vị, tôi ôm những đồng chí Việt Nam ba lần theo kiểu Nga, nước mắt ứa ra mà không nói nên lời. Chúng tôi lên xe về Hà Nội dự một buổi lễ chia tay quan trọng do Đại tướng Võ Nguyên Giáp chủ trì. Chúng tôi được tặng Huân chương Hữu nghị, giấy chứng nhận tri ân do Thủ tướng Phạm Văn Đồng kí và rất nhiều quà tặng từ các đồng chí Việt Nam.
VNQĐ: Vậy là chưa đầy một năm, khoảng thời gian không dài nhưng các chuyên gia Liên Xô đã xây dựng được một nền tảng quan trọng giúp lực lượng tên lửa Việt Nam hình thành và phát triển. Trở về Nga, hẳn ông vẫn dõi theo tình hình?
Ông Nikolai Kolesnik: Tôi trở về, xuất ngũ với quân hàm trung sĩ và tiếp tục theo học ngành điện rồi ra làm việc. Nhưng dù ở đâu, làm gì thì Việt Nam luôn là mối quan tâm lớn của tôi. Tôi cập nhật tin tức hàng ngày để theo dõi tình hình chiến đấu của quân và dân Việt Nam, của lực lượng tên lửa S-75. Và tôi vô cùng tự hào khi biết các đơn vị tôi tham gia huấn luyện bắn rơi thêm nhiều máy bay Mĩ. Người Việt Nam rất thông minh. Từ giáo trình cơ bản của Liên Xô, các bạn đã vận dụng linh hoạt, cải tiến thiết bị và sáng tạo ra nhiều cách đánh phù hợp với điều kiện Việt Nam, mang lại hiệu suất chiến đấu rất cao.
VNQĐ: Tâm trạng của ông khi theo dõi chiến dịch 12 ngày đêm cuối tháng 12/1972?
Ông Nikolai Kolesnik: Hồi hộp, và cả lo lắng nữa. Và rồi tim tôi như nổ tung khi lực lượng Phòng không - Không quân Việt Nam đã ngoan cường đánh trả cuộc tập kích hàng không mang tên Linebacker II vào các thành phố Hà Nội, Hải Phòng…, bắn rơi 81 máy bay các loại, trong đó hơn 30 chiếc B-52 bị tên lửa S-75 hạ gục, tạo nên một “Điện Biên Phủ trên không” chấn động thế giới. Một chiến thắng mang ý nghĩa quyết định, buộc Mĩ phải kí Hiệp định Paris mấy tháng sau đó và rút quân khỏi Việt Nam. Những ngày sau đó tôi sống trong trạng thái sung sướng lâng lâng, chỉ mong được bay ngay sang thăm đơn vị và các đồng chí Việt Nam. Nhưng phải đợi tới ngày Việt Nam thống nhất tôi mới toại nguyện.
VNQĐ: Và ông đã sang Việt Nam thêm nhiều lần?
Ông Nikolai Kolesnik: Vâng, 7 lần. Lần gần đây nhất tôi được mời sang dự Lễ kỉ niệm 80 năm ngày Quốc khánh. Dù số lần sang Việt Nam không nhiều, nhưng tôi vẫn được gặp gỡ các đồng chí Việt Nam thường xuyên. Bởi năm nào Đại sứ quán Việt Nam, Văn phòng tùy viên Quốc phòng Việt Nam tại Cộng hòa Liên bang Nga cũng tổ chức tiệc tri ân đối với các cựu chiến binh Nga tham gia công tác tại Việt Nam. Rồi các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng Việt Nam mỗi khi sang Nga công tác đều dành thời gian tổ chức những buổi gặp mặt ấm áp. Những nghĩa cử này khiến tôi có cảm giác mình luôn được sống giữa những người đồng chí Việt Nam chung thủy nghĩa tình.
VNQĐ