Tàn Tuyết là gương mặt tiêu biểu của văn học tiên phong Trung Quốc sau Đổi mới, với phong cách sáng tác giàu tính phá cách trong cấu trúc, ngôn ngữ và xây dựng nhân vật. Tiểu thuyết Những chuyện tình thế kỉ mới là tác phẩm tiêu biểu thể hiện rõ tư tưởng và phong cách đặc trưng của bà.
Trong một thành phố thiếu vắng tên gọi, có những con người bình thường sinh sống. Họ là thủ kho một nhà máy vô danh, công nhân nhà máy xà phòng, chuyên gia giám định đồ cổ, những phụ nữ nhà máy dệt đã rời xa nhà máy để bước vào con đường bán dâm… Họ tồn tại, làm việc, yêu thương và khao khát theo đuổi tình yêu trong những mối dây liên kết tình cảm, hoặc về chính cội rễ của họ, giữa một không gian thực ảo lẫn lộn, ở một thế giới như thực như mơ mà làm nên “những chuyện tình thế kỉ mới.”

Nhà văn Tàn Tuyết.
Phương thức tự sự
Được cấu thành từ “sự phối hợp giữa tiêu cự trần thuật và tư cách kể”[1], theo thời gian cũng như trải qua sự tiếp biến của văn học thế giới, đã xuất hiện hàng loạt phương thức tự sự khác nhau. Là một trong những tiểu thuyết gia tiêu biểu cho dòng văn học tiên phong của nền văn học Trung Quốc sau thời kì đổi mới, tính tiên phong được Tàn Tuyết thể hiện rõ nhất trước hết ở phương thức tự sự trong mỗi sáng tác bà viết lên. Tiểu thuyết Những chuyện tình thế kỷ mới là những nỗ lực của bà nhằm đổi mới phương thức tự sự trên các khía cạnh về kết cấu tác phẩm phân mảnh tới gần như tan rã, điểm nhìn trần thuật đa chiều, thay đổi liên tục hay sự đảo lộn, chồng chéo của không - thời gian nghệ thuật.
Với kết cấu nhiều tầng bậc tự sự đan xen thật ảo và cõi mộng, Tàn Tuyết tạo nên trong tiểu thuyết một hệ thống các tiểu tự sự giao thoa chằng chịt. Mười một chương truyện mà mỗi chương đề cập tới một cá nhân khác nhau, có những phần truyện nhân vật trở đi trở lại trong các mối quan hệ tình cảm phức tạp; ranh giới hư - thật qua trang văn Tàn Tuyết mỗi lúc một thêm nhòe mờ. Ngưu Thúy Lan đã không thể phân định giấc mơ kinh hoàng của cô tại khách sạn suối nước nóng hay những gì cô thấy trên đỉnh ngọn cây long não tại căn nhà của người anh họ tại quê hương có thật sự diễn ra hay không. Trong ý thức lẫn niềm tin của A Ti về mẹ cô và hiện thực mà Long Tư Hương cùng Vi Bá đã thấy mẹ A Ti ở hiện tại, đâu mới là sự thật? Trên con thuyền trong đêm tối mịt mùng mà cảnh sát Tiểu Hạ và Viên Hắc đã ngồi, họ có thật sự nỗi kinh hoàng trước khi cập bến bình minh? Và tiếng hát ám ảnh của Trà Hoa Nữ phủ trùm câu chuyện vọng lại từ tầng hầm, phát ra từ nhà hát hay vang vọng chính từ hư không kia… Tất cả những tiểu tự sự bị phân mảnh trong hiện thực, giữa hư ảo, tan vào cõi mơ, cõi mộng, hiện hình ở vùng vô thức đó đều cùng hòa quyện trong thế giới tiểu thuyết của Những chuyện tình thế kỷ mới. Một thế giới ngỡ chừng không có cốt truyện mà chỉ là tổng hòa của những ý thức vụn vỡ từ các cá nhân như đã đánh mất cội gốc luôn khát cầu yêu thương vậy.
Trong kết cấu câu chuyện phân mảnh phức tạp như vậy, điểm nhìn trần thuật cũng trở nên đầy bất định, nhất là một tác phẩm được viết theo ngôi kể thứ ba và hoàn toàn thiếu vắng đi cái tôi tự thuật như Những chuyện tình thế kỷ mới. Với từng chương truyện là câu chuyện về một cá nhân và người đó trở thành nhân vật trung tâm trong tiểu tự sự của riêng họ; điểm nhìn trần thuật cũng được đặt lên chính những con người ấy để họ tự nhìn nhận thế giới bên ngoài và đi sâu vào thế giới nội tâm bản ngã. Vì thế, người đọc có thể nhận thấy vùng quê của Ngưu Thúy Lan dưới ánh nhìn của chính Thúy Lan khác rất xa so với sự nhắc đến thoáng qua trong kí ức Vi Bá. Miền núi Sào qua nhận thức của Lưu có sự khác biệt với núi Sào mà Tiểu Viên đến làm giáo viên và có những khoảng không mà bác sĩ Lưu đã không thể đặt chân đến. Và với sự giao tiếp giữa các nhân vật trong các mối quan hệ chằng chéo, điểm nhìn trần thuật còn liên tục có sự chuyển đổi giữa nhân vật này với nhân vật kia. Điểm nhìn trần thuật biến đổi linh hoạt như vậy giữa một kết cấu phân mảnh đã làm nên sự đứt gãy đồng thời tăng thêm tính mơ hồ về mặt không - thời gian trong Những chuyện tình thế kỉ mới.
Quả thực, ở cuốn sách này, Tàn Tuyết đã tạo nên một hệ thống không gian nghệ thuật hết sức đặc biệt. Có không gian thuộc về cá nhân, có không gian thuộc về cộng đồng; có vùng không gian hẹp thuộc về “bên trong”, có vùng không gian rộng lớn thuộc về “bên ngoài”; có không gian tĩnh, có không gian động; có không gian thành thị, có không gian làng quê; có vùng hoa lệ, sự sống sinh sôi, lại có vùng hoang tàn, đổ nát… Nhưng dẫu là vùng không gian nào thì tất thảy đều nằm trên ranh giới mong manh vô sắc của hai bờ hư - thực, của hai miền quá vãng - hôm nay.
Và những kiếp người bé mọn trên trang văn Tàn Tuyết, lặng lẽ đi lại giữa vùng ranh giới mong manh đó, trôi lạc trong “bến cảng tự do”, vẫn khát cầu một “quê hương” và tình yêu, hạnh phúc sau tất thảy những khổ đau họ đã chịu đựng. Kể cả khi sự tỉnh thức “tại sao những người như chúng ta lại không thể có cuộc sống của riêng mình?” đến vào thời điểm họ đã bước sang tuổi xế bón đi chăng nữa.

Tác phẩm của nhà văn Tàn Tuyết.
Ngôn ngữ tiểu thuyết
Là “đối tượng miêu tả của nhà văn” và là một thành tố vô cùng phong phú trong tiểu thuyết nên mỗi dạng thức hay mỗi tác giả đều có cách sử dụng ngôn ngữ tiểu thuyết riêng biệt. Trong tiểu thuyết này, ngôn ngữ tồn tại không chỉ dưới nhiều hình thức đa dạng mà muôn tiếng nói quyện hòa cất lên từ muôn nẻo không gian góp phần khắc họa lên hình bóng con người trong một thế giới vô định, méo mó.
Trước hết cần phải khẳng định một điều rằng, mang cấu trúc phân mảnh tới từng chi tiết, sự kiện, ngôn ngữ mảnh vỡ trở thành một trong những thành tố quan trọng nhất của phương diện ngôn ngữ tiểu thuyết ở Những chuyện tình thế kỷ mới. Tính kịch phi lí trong đối thoại giữa các nhân vật được thể hiện rất rõ khi mà họ nói chuyện với nhau, đối thoại có sự nối tiếp về cùng một chủ đề nhưng sự mơ hồ, bất định vẫn thường trực. Hay chính những mô tả, diễn giải người ta nói ra luôn ẩn chứa sự thật giả khó phân còn bản thân con người nơi đây lại hầu như không hề hoài nghi và rất dễ tin tưởng về điều đối phương đã nói.
Đối thoại mang tính kịch và đầy sự mờ ảo, độc thoại và độc thoại nội tâm lại càng thêm mơ hồ. Tàn Tuyết đã để những nhân vật của bà thực hiện hàng loạt hành trình đi sâu vào nội tâm, về miền vô thức để tự vấn bản thân. Giấc mơ xuất hiện như một điều tất yếu và ngay chính hiện thực người ta đang tồn tại, cũng khó phân định là thật hay mơ. Người ta nói với người bên cạnh hay cũng chỉ là hình thức nói với chính mình, một cái tôi bản thể đang tự phân cực đối thoại mà thấu hiểu bản thân. Như buổi học địa lí trong lòng đất giữa Tiểu Viên và những cô cậu học trò tại huyện Sào khiến cả một vùng không gian náo động vậy.
Thậm chí có những tiếng nói vô định hình từ hư vô. Và đặc biệt, trong sự vỡ vụn của hàng loạt dạng thức ngôn ngữ đó, có một tiếng nói vẫn xuyên suốt mà như chẳng hề biến thiên, là tiếng hát của người phụ nữ đã dành trọn cuộc đời cho vai diễn Trà Hoa Nữ đến nỗi tên Trà Hoa Nữ đã trở thành định danh của bà ở thành phố này. Tiếng hát bà cất lên như lạc điệu hoàn toàn với vở kịch Trà Hoa Nữ nguyên gốc nhưng lại tồn tại như một dạng mỏ neo níu giữ tâm hồn những con người nơi đây, bất kể họ có đi đến đâu, có rời xa thành phố hay lánh mình vào một nhà tù xa xôi.
Và tiếng hát vọng từ muôn nẻo hư không kia trở thành thứ ngôn ngữ nối kết những mảnh vỡ trong tiểu thuyết Những chuyện tình thế kỷ mới. Tiếng hát của một kiếp người đó như thức tỉnh cho tình yêu và niềm ham sống của những con người đang ngày ngày sinh tồn dưới đáy cùng xã hội, trong tận cùng bóng tối, giữa nẻo đường thâm u của một thực tại nhiều biến động.
Trạng thái sinh tồn
Có thể nói, dù không đề cập đến quá nhiều tới cái chết nhưng hiện hình cái chết dường như luôn thường trực trong tiểu thuyết Những chuyện tình thế kỷ mới. Cái chết bủa vây lấy con người trong dấu hiệu của sự tàn lụi, sự biến mất, ở những con người, kí ức đã trở thành lịch sử, trong sự tái sinh hay hành trình người ta đi sâu vào bóng tối, lòng đất, tiến về miền hư vô… Và trong hiện hình cái chết thường trực kia, trạng thái sinh tồn đẩy lên cực hạn của con người được Tàn Tuyết khắc họa càng thêm rõ nét.
Cũng như Dư Hoa, một đại diện tiêu biểu khác của phong trào văn học tiên phong, Tàn Tuyết cũng có sự tri nhận về sự yếu đuối và bất lực của sinh mạng, sự hoang đường và vô lí tính của thế giới. Chẳng thế mà lớp lớp những nữ công nhân nhà máy dệt như A Ti, Long Tư Hương, Kim Châu đã bào mòn thanh xuân để trở thành một phần lịch sử của nhà máy ở hiện tại đã thành nơi hoang phế. Chẳng thế mà kẻ hành nghề giám định cổ vật như lão Vưu, lặng lẽ bước đi trong đêm tối hằng đêm, bào mòn sinh mạng trong một thành phố vô danh, vô định.
Sinh mạng yếu đuối và bản thân người ta cũng luôn ý thức về sự yếu đuối của chính mình. Hay phải chăng chính vì yếu đuối nên người ta đã từng không muốn thay đổi. Nhưng chẳng phải, càng ý thức mạnh mẽ về sự yếu đuối bao nhiêu, người ta lại càng mạnh mẽ mà thấu hiểu giá trị của sự sống, sự tồn tại bấy nhiêu hay sao?
“Chị đã quyết định, chị cảm thấy mình đang bước vào thế giới của học trò, nhưng nước sông chảy xiết khiến chị đứng không vững, lẽ nào đang có gió lớn trên mặt sông? Giọng nói kia trả lời: “Ở đây luôn luôn như thế. Bên phải hay bên trái?” Chị không thể giữ thăng bằng, nhưng chị cũng sẽ không ngã.”
Thật vậy, người ta sẽ không gục ngã dẫu khó khăn, dẫu cho có những biến động khiến họ phải chọn lựa, về bên phải hay về bên trái, hay đứng lại mà tin tưởng vào chính mình. Và trong sự kiên định của con người về giá trị sống trên trang văn Tàn Tuyết, khát vọng yêu thương, sự giao thoa với dòng văn học tầm căn trong ý thức con người về hai tiếng quê hương cùng diễn ngôn nữ quyền càng được biểu hiện thêm phần sâu sắc.
Khi trong cuốn tiểu thuyết có tựa đề đầy lãng mạn này, cả đàn ông và phụ nữ, đều khao khát yêu và được yêu biết chừng nào. Thậm chí, họ đã tái sinh dưới một hình hài khác để tìm về với người họ yêu thương. Đặc biệt, những người phụ nữ yếu đuối, mong manh xiết bao dưới ngòi bút của Tàn Tuyết lại cũng là những người mạnh mẽ khôn cùng trong sự quyết tuyệt, dám nghĩ, dám làm, dám theo đuổi, cũng dám buông bỏ tình yêu. Tựa những cô gái nhà máy dệt tiến vào con người mại dâm hay một người phụ nữ vốn có cuộc sống ổn định như Tiểu Viên đã để lại tất cả sau lưng để tới huyện Sào vậy.
Và tất thảy những xao động đó, đều nằm trong cảm thức mãnh liệt về cội rễ. Ngưu Thúy Lan tìm về quê khi mất phương hướng trong mối quan hệ với Vi Bá. Vi Bá được gợi nhắc về quê hương chính anh còn không biết rõ địa điểm khi lạc lối trong cuộc sống gia đình lẫn tình yêu đầy mâu thuẫn với Ngưu Thúy Lan. Sinh ra và lớn lên ở phố thị nhưng khi sống ở huyện Sào, một người luôn “xê dịch” như Tiểu Viên lại thấy như được trở về quê…
Người ta tìm tới quê hương khi lạc bước và người ta tìm đến “bến cảng tự do” mỗi lần bế tắc. Hai khía cạnh riêng biệt cùng tồn tại trong một cuốn tiểu thuyết như cái nhìn đầy khách quan của Tàn Tuyết về chính con người và xã hội Trung Quốc buổi đương thời. Mà ở đó, bà vừa phê phán những thế lực vô hình bào mòn sự sống con người nhưng đồng thời bà vừa thể hiện sự gắn bó sâu nặng của con người với hiện thực. Và có lẽ chăng, chính sự tiên phong trong lối viết tiểu thuyết cực kì hiện đại song vẫn luôn gắn bó tác phẩm với từng nhịp thở của cuộc sống mảnh đất Hoa Hạ mà sáng tác của Tàn Tuyết nói chung, tiểu thuyết Những chuyện tình thế kỷ mới nói riêng, luôn có một vị trí quan trọng trong nền văn học đương đại Trung Quốc sau thời kì đổi mới lẫn dòng chảy văn chương thế giới buổi đương thời.
MỌT MỌT
-----------------
[1] Từ điển thuật ngữ văn học