Là một trong những tiếng nói nữ nổi bật của văn học đương đại Nhật Bản, Ogawa Yoko chạm đến độc giả bằng lối viết dịu dàng, thấm đẫm cảm xúc và chiều sâu tinh tế. Kết tinh thầm lặng chính là kết tinh trọn vẹn của chất văn ấy – thuần khiết, thầm lặng nhưng ám ảnh.
Đặt bối cảnh giả tưởng trên một hòn đảo vô danh nằm biệt lập với thế giới bên ngoài, tiểu thuyết Kết tinh thầm lặng khắc họa lên sự “biến mất” dần dần của những sự vật tại nơi này. Mỗi khi sự biến mất xảy đến, người dân đảo lại lặng lẽ mang thứ bị biến mất đi vứt, đốt, bỏ… rồi lặng lẽ lãng quên như chúng chưa từng tồn tại. Nhưng có những người chưa từng quên lãng bất cứ điều gì, họ trở thành nhóm nằm ngoài luật lệ. Và cảnh sát kí ức tồn tại để duy trì sự biến mất diễn ra đúng quy luật đã không ngừng truy lùng họ mỗi lúc một thêm gắt gao khi càng ngày, càng thêm nhiều thứ mất đi hơn trên hòn đảo vô danh.

Tác phẩm Kết tinh thầm lặng.
Những thứ biến mất
Được xây dựng qua điểm nhìn từ ngôi kể thứ nhất, người kể chuyện trực tiếp xưng “tôi”, kể lại những chuyện xảy đến, tiểu thuyết Kết tinh thầm lặng, trước hết là sự kết tinh của hàng loạt bất thường. Bất thường ngay ở chính hòn đảo tôi sống, nơi đã và đang diễn ra sự biến mất không ngừng. Một hòn đảo giữa muôn trùng dương, biệt lập tới nỗi không có bất cứ sự giao tiếp nào với thế giới bên ngoài. Là do “bến phà”, nơi trung chuyển người dân đảo với thế giới “ngoài kia” đã không còn hay vốn dĩ do tên gọi của hòn đảo này cũng đã bị xóa sổ, lãng quên ngay từ khi người ta nhận được tin rằng, tên hòn đảo là thứ phải “biến mất”?
Từ nơi chốn vô danh, sự mất đi tên gọi đã lan rộng đến từng cá thể trên hòn đảo đó. Người ta mất đi định danh, chỉ còn được nhắc đến bằng đặc điểm nghề nghiệp, các mối quan hệ hay ngoại hình của họ. Họ có căn cước nhưng chẳng ai gọi nhau bằng tên hoặc phải chăng, “tên gọi” cũng đã trở thành một thứ bị lãng quên?
Không ai rõ, cũng không ai đề cập rằng sự biến mất bắt đầu từ khi nào; cũng không ai biết những vùng đất phía ngoài khơi xa kia có diễn ra sự biến mất hay không. Chỉ biết rằng, “biến mất”, dù không có quy luật cụ thể cũng đã trở thành một chu trình tự nhiên, một điều tất yếu còn người dân trên đảo, tựa những cỗ máy được lập trình luôn biết phải làm gì mỗi khi sự kiện đó diễn ra. Họ đã vứt bỏ, đã chôn lấp, đã đốt cháy… hay đơn giản là chẳng cần làm gì hết, chỉ cần để mặc mọi chuyện như vậy tất thảy sẽ trôi về quên lãng.

Nhà văn Ogawa Yoko.
Nước hoa, hộp nhạc, loài chim, hoa quả, hoa hồng, ảnh, tiểu thuyết, cuốn lịch… cũng không ai đếm được theo thời gian đã có bao nhiêu thứ mất đi trên hòn đảo ấy. Để rồi tâm hồn người dân đảo chỉ còn lại lỗ chỗ những khoảng trắng trống vắng vì đã mất mát quá nhiều. Biến mất và lãng quên đến không thể gợi nhắc một chút gì trong tâm trí mãi về sau thì thật đơn giản. Nhưng mất đi cũng đồng nghĩa với tuyệt diệt, bởi rất ít thứ được sản sinh thêm và thứ này không còn, cũng kéo theo một loạt hiệu ứng domino như dóng lên lời cáo chung cho hòn đảo bị quên lãng.
Con phà biến mất, cắt đứt sự giao thiệp giữa người trên đảo với cuộc sống phía bên kia đại dương. Tiểu thuyết biến mất, kho lưu trữ tri thức, thư viện theo đó cũng bị phá hủy. Lịch bị loại bỏ khiến thời gian ở đảo chững lại mãi tại một điểm, mùa đông phủ tuyết không ngừng dù cho thời gian thực tế vẫn luôn chảy trôi.
Nếu chấp nhận rằng sự biến mất trên hòn đảo vô danh là một sự kiện tất yếu thì sự bàng quan tới hiển nhiên của con người nơi đây lại trở nên quá đỗi bất thường. Khi người ta có thể dễ dàng lãng quên và thích ứng với sự mất mát dễ dàng đến thế; như thể, chính họ không quá hãi sợ việc cảnh sát thời gian truy lùng mà chỉ đơn giản rằng, với họ sự tồn tại của bản thân trên cõi đời cũng không quá quan trọng. “Hãy để mặc thời gian”, cho thời gian định đoạt.
“Hoàn toàn không thể đối chọi lại với sự biến mất. Cái năng lượng khi một thứ gì đó mất đi thật khủng khiếp. Nó không bạo lực, nhưng triệt để, mau lẹ và không một chút lơ là. Nếu cứ để mặc mà không lấp đầy khoảng trống của sự biến mất thì hòn đảo sẽ chỉ toàn là lỗ hổng.”
Và rồi khi thời gian chững lại, hết thảy đều không còn, đến con người cũng không trân trọng sự tồn tại của bản thân, thì điều cuối cùng đón đợi con người nơi đây chẳng phải chỉ còn là sự diệt vong trên một vùng đất chết hay sao.
Những điều không thể mất đi
Trên một hòn đảo mà sự biến mất bất thường lại trở thành bình thường thì những người không lãng quên như bao người khác vô hình trung sẽ trở thành những kẻ bất thường nằm ngoài rìa xã hội. Những người đó, họ nhớ tất cả mọi thứ đã biến mất và họ tìm mọi cách để có thể lưu giữ chúng lại trên cõi đời, bằng bất cứ giá nào. Với họ, nhớ trong kí ức là không đủ mà họ nâng niu, cất giấu từng thứ, dù nhỏ bé nhất. Những tạo vật đã biến mất kia, bỗng như hằng hà những thứ kết tinh đẹp đẽ cho một phần quá khứ từng tồn tại trên cõi đời.
Nhưng cả những người không chịu quên lãng, cả những thứ đã biến mất vẫn còn hiện diện kia, đâu có quyền tồn tại trong xã hội mà biến mất và lãng quên là mẫu số chung cho toàn cộng đồng. Họ, những kẻ lạc loài, bị cảnh sát kí ức truy lùng mỗi lúc thêm gắt gao. Không ai biết cảnh sát kí ức đến từ đâu, hoạt động như thế nào; cũng không ai rõ những người bị cảnh sát kí ức bắt đi sẽ bị đối xử ra sao. Nhưng với một nơi thượng tôn sự “biến mất” và cảnh sát kí ức hoạt động để duy trì quá trình đó diễn ra triệt để; thì những ai khước từ việc quên lãng, chẳng phải họ chính là bản thể sống lưu giữ những gì không còn hay sao? Vậy cũng chẳng phải, chính họ cũng phải biến mất khỏi cõi đời như bao sự vật khác. Họ, không được phép tồn tại.
Tuy nhiên, kí ức của con người và bản thân con người vẫn luôn là một trong những tạo vật kì diệu nhất của tạo hóa. Bởi người ta có thể hủy diệt một sự vật vô tri vô giác song khó lòng phá hủy hoàn toàn kí ức con người.
“Một thứ dù đã mất dạng, song dư âm của nó vẫn còn vương đâu đó. Tựa như một hạt giống nhỏ, khi ngày nọ có trận mưa thổi tới, thế là lá mầm lại trồi lên.”
Có lẽ, chính vì lo sợ một ngày kí ức về những gì đã mất trở lại với người dân trên hòn đảo vô danh, mà con người nơi đây buộc phải quên đi chính cách tồn tại, họ phải trở thành một phần của hòn đảo chìm vào quên lãng này. Nhưng dẫu vậy, trước lúc tận diệt với hòn đảo, những con người đã chấp nhận lãng quên mọi thứ, vẫn không quên cách yêu thương và chia sẻ cuộc sống thiếu thốn, khốn khó với nhau. Sự thiếu hụt mọi bề trong cảnh tuyết rơi kéo dài, khiến con người nơi đây biết cách lan tỏa hơi ấm thương yêu. Thiên tai ập đến, quét qua hòn đảo khiến mọi thứ trở nên hoang tàn và ở hoàn cảnh ai cũng như ai, không làm họ lãng quên việc ngỏ lời giúp đỡ những người yếu đuối. Sau tất cả mất mát làm tâm hồn con người mỗi lúc một thêm trống rỗng, phần yêu thương không biến mất này cũng tựa sự kết tinh ấm áp, ngọt ngào giữa cái giá lạnh bủa vây.
Mang một kết cấu khá đặc biệt, điểm nhìn trần thuật của câu chuyện đặt vào ngôi kể thứ nhất, nhân vật trung tâm xưng tôi nhưng đồng thời nhân vật đó cũng là một nhà văn, hành nghề viết tiểu thuyết. Nên ngoài một “tôi” sống trên hòn đảo vô danh đang dần trải sự biến mất, còn một “tôi” khác cùng song hành tồn tại là “tôi” trên trang tiểu thuyết cô đang viết. Và một “tôi” khác kia cũng đang “biến mất”, hay nói cách khác, là hòa quyện vào không gian hẹp nhốt lấy cô và dần chiếm hữu mọi thứ thuộc về cô: giọng nói, đôi mắt, cá tính, bản ngã, niềm khao khát phản kháng… Nhưng “tôi” thực tế khác “tôi” tiểu thuyết bởi “tôi” thực tế đã không ngừng tự vấn và hãi sợ sự biến mất bào mòn tâm hồn. Và sau khi mất đi, “tôi” đời thực vẫn luôn có người nhớ tới cô. Hình hài, quãng thời gian cô tồn tại đã trở thành kết tinh hiện hình trong kí ức người duy nhất còn ở lại sau hết thảy mất mát.
Kết tinh thầm lặng, vì thế trải qua hai lần mã hóa đã tạo nên sự phức hợp, song chiếu đầy phức tạp trong hiện hình “cái tôi” và sự vùng vẫy, cảm nhận của con người về ý nghĩa sự “tồn tại” trước từng mảng kí ức một trôi qua kẽ tay mà chẳng thể níu giữ. Câu chuyện nhiều tầng bậc suy tưởng, qua văn phong dịch thuật của dịch giả Uyên Thiểm với những từ ngữ thường dùng rất đắt: “Trên đường vận chuyển tới chỗ đổ, tuyết sẽ lấm bẩn và trở nên xấu xí. Thế rồi chúng sẽ biến mất vào giữa những lớp sóng như thể bị nuốt vào cuống họng của biển khơi mênh mông” lại càng như thêm phần ám ảnh, day dứt.
Sau hết thảy mất mát và tàn lụi, trên mặt đất còn lại gì? Phải chăng như chính anh R, biên tập viên của tôi nói, là kí ức thuở xưa sẽ bật mầm và yêu thương, chính là dưỡng chất cho hạt mầm đó sinh trưởng nên nền tuyết trắng hoang tàn.
Xây dựng một câu chuyện tràn ngập mất mát nhưng “kết tinh” lại là yêu thương và mầm sống tương lai, có lẽ đó chính là sự tinh tế, cái tôi đầy nữ tính, nhân văn khi nhìn cuộc đời và con người của tác giả Ogawa Yoko.
MỌT MỌT