Thứ Tư, 30/04/2025 00:48

Sức mạnh chính trị - tinh thần – nhân tố quyết định thắng lợi trong chiến dịch hồ chí minh 1975 và bài học cách mạng trong bối cảnh hiện nay

Học thuyết Mác - Lênin về chiến tranh và quân đội đã chỉ rõ, sức mạnh của mỗi bên tham chiến trong chiến tranh là sức mạnh tổng hợp cả lực lượng vật chất và lực lượng tinh thần... (VŨ THỊ NGÁT)

. VŨ THỊ NGÁT
 

Sau Hiệp định Paris (27/1/1973), đế quốc Mĩ vẫn tiếp tục tiến hành chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” trắng trợn phá hoại Hiệp định, đẩy mạnh lấn chiếm, bình định, duy trì chế độ thực dân kiểu mới ở miền Nam Việt Nam. Năm 1974, cục diện chiến trường chuyển biến nhanh chóng, ngày càng có lợi cho ta, thời cơ giải phóng hoàn toàn miền Nam đã đến. Bộ Chính trị đề ra quyết tâm chính trị, kế hoạch chiến lược để tận dụng thời cơ lịch sử, sớm mở cuộc tiến công và nổi dậy kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước. Ngày 10/3/1975, với “đòn điểm huyệt” Buôn Ma Thuột, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta bắt đầu. Sau Chiến dịch Tây Nguyên, Chiến dịch Huế, Đà Nẵng thắng lợi nhanh chóng, 17 giờ ngày 26/4/1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử bắt đầu. Thực hiện tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Bộ Chính trị “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, 5 cánh quân chủ lực hùng mạnh của ta tiến hành tổng tiến công vào Sài Gòn cùng với sự phối hợp chiến đấu của lực lượng vũ trang địa phương và phong trào nổi dậy mạnh mẽ của quần chúng nhân dân, chúng ta đã đập tan sự kháng cự của địch, buộc nội các chính quyền Sài Gòn phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Đúng 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, lá cờ của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tung bay trên nóc Dinh Độc Lập, Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử kết thúc thắng lợi. Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 đã kết thúc cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước, hoàn thành vẻ vang sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc kéo dài liên tục trong 30 năm của quân và dân ta. Với thắng lợi vĩ đại này, dân tộc ta bước sang kỉ nguyên mới, kỉ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đại thắng mùa xuân năm 1975 là sự kết tinh cao nhất sức mạnh tổng hợp của dân tộc với sức mạnh thời đại. Trong đó, sức mạnh chính trị - tinh thần của quân và dân ta là một trong những nhân tố cơ bản và là động lực góp phần quyết định thắng lợi cuối cùng.

Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh tại căn cứ Tà Thiết-Lộc Ninh tháng 4-1975. Ảnh TTXVN

Sức mạnh chính trị - tinh thần gồm tổng thể các yếu tố như lòng yêu nước, ý chí, niềm tin, tinh thần đoàn kết, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, hệ giá trị văn hóa… Học thuyết Mác - Lênin về chiến tranh và quân đội đã chỉ rõ, sức mạnh của mỗi bên tham chiến trong chiến tranh là sức mạnh tổng hợp cả lực lượng vật chất và lực lượng tinh thần. Giành được ưu thế về tinh thần trong chiến tranh là giành được một trong hai ưu thế cơ bản của sức mạnh, giành được một trong những nhân tố quyết định thắng lợi. Lịch sử các cuộc chiến tranh trên thế giới đã chứng minh, ý chí, lòng dũng cảm sẽ giúp con người vượt qua mọi khó khăn, thách thức để làm nên những chiến thắng vang dội. Thực tiễn lịch sử dựng nước và giữ nước cũng đã cho thấy, sức mạnh chính trị -tinh thần là nhân tố cốt lõi, cội nguồn tạo nên sức mạnh của dân tộc ta. Trong thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, yếu tố chính trị - tinh thần đã được quy tụ, phát huy cao độ, làm nên những chiến công, thành tựu vĩ đại trong lịch sử dân tộc.

Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, quân và dân Việt Nam đã phải đương đầu với cỗ máy chiến tranh khổng lồ có tiềm lực quân sự hùng mạnh. Để đánh bại kẻ thù hung bạo, chúng ta đã phát huy cao độ ưu thế của chiến tranh nhân dân; kết hợp sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc với sức mạnh thời đại, nêu cao ý chí quyết chiến, quyết thắng vì độc lập - tự do của Tổ quốc. Cuộc kháng chiến đã huy động được mọi nguồn lực, sức mạnh chính trị-tinh thần của quân và dân. Lí tưởng, lẽ sống “cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù”, tinh thần “cả nước ra quân, toàn dân đánh giặc” được nâng lên thành những cao trào cách mạng. Tất cả thể hiện rõ ở hành động dũng cảm trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ và các tầng lớp nhân dân trên khắp mọi miền Tổ quốc qua các phong trào: “Thanh niên ba sẵn sàng”, “Phụ nữ ba đảm đang”, “Tay cày, tay súng”, “Tay búa, tay súng”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước...”. Mỗi phong trào, mỗi chiến công đã trở thành biểu trưng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh và là nét độc đáo của chiến tranh nhân dân Việt Nam. Nhờ có tinh thần quyết chiến, quyết thắng đó mà quân và dân ta lần lượt đánh bại chiến lược “chiến tranh đơn phương”, “chiến tranh đặc biệt”, “chiến tranh cục bộ”, “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mĩ - ngụy, xoay chuyển tình thế, tạo nên thế và lực mới buộc Mĩ phải ngồi vào bàn đàm phán và kí kết Hiệp định Paris. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ là minh chứng rõ nhất cho lời khẳng định của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong cuộc nói chuyện với McNamara - cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mĩ, ngày 9/11/1995: “Nghệ thuật quân sự của chúng tôi, là lấy tinh thần chế ngự vật chất, lấy yếu chế ngự mạnh, lấy thô sơ chế ngự hiện đại. Chúng tôi đánh bại quân đội đế quốc hiện đại bằng tinh thần yêu nước của nhân dân cùng với chủ nghĩa anh hùng cách mạng”. Đó là thắng lợi vô song của lòng yêu nước và trí tuệ con người Việt Nam trước những vũ khí tối tân và máy móc hiện đại của kẻ thù. Và chính McNamara khi nhìn lại cuộc chiến tranh tại Việt Nam cũng đã phải ngậm ngùi thừa nhận “Mĩ đã thất bại vì không hiểu gì về lịch sử, truyền thống và văn hóa Việt Nam”1, thất bại vì chưa đánh giá đúng vai trò nhân tố chính trị, tinh thần của nhân dân Việt Nam.

Sức mạnh chính trị - tinh thần của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mĩ và Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt nguồn từ đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo và sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kì, tự lực cánh sinh. Sức mạnh chính trị - tinh thần đó còn bắt nguồn từ ý chí “Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, từ khát vọng giành cho được độc lập tự do của cả dân tộc và truyền thống yêu nước, kiên cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm được hun đúc từ ngàn năm dựng nước và giữ nước. Ý chí, khát vọng đó đã thấm sâu vào toàn quân, toàn dân, trở thành quyết tâm sắt đá, thể hiện trong suốt chặng đường trường kỳ kháng chiến.

Bước vào thời kì xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn coi trọng xây dựng, phát huy tiềm lực chính trị - tinh thần, coi đây là nhân tố giữ vai trò đặc biệt quan trọng, tạo cơ sở, nền tảng nâng cao sức mạnh của đất nước và đạt được những thành tựu to lớn. Sau gần 40 năm đổi mới, thế và lực, sức mạnh tổng hợp, vị thế, uy tín quốc tế của đất nước được nâng cao, niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, quản lí của Nhà nước thường xuyên được tăng cường, tạo tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, việc xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần vẫn còn những hạn chế và đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt mục tiêu, lí tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ. Nạn tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có chiều hướng diễn biến phức tạp. Tác động của mặt trái kinh tế thị trường làm cho chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, vị kỉ trỗi dậy; xuất hiện tình trạng thờ ơ về chính trị, bàng quan trước lợi ích quốc gia, dân tộc, giảm sút trách nhiệm với xã hội, nghĩa vụ với đất nước, cộng đồng. Một số phần tử bất mãn, cơ hội chính trị lợi dụng mạng xã hội công khai phê phán, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng, cổ súy cho giá trị kiểu phương Tây… gây tác động tiêu cực làm giảm sút sức mạnh chính trị - tinh thần, niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng cũng như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để phát huy những giá trị lịch sử to lớn đã đạt được, đồng thời khắc phục những hạn chế trong thời gian qua nhằm nâng cao hiệu quả xây dựng sức mạnh chính trị - tinh thần cần làm tốt một số giải pháp sau:

Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lí của Nhà nước đối với xây dựng nhân tố chính trị - tinh thần. Cấp ủy, chính quyền các cấp quán triệt sâu sắc, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về xây dựng nhân tố chính trị - tinh thần. Trong đó, đặc biệt coi trọng lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng “thế trận lòng dân”, xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc; chính sách dân tộc, tôn giáo... bảo đảm thực thi đầy đủ quyền con người trong thực tiễn, xác định đây là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của địa phương, đơn vị; đồng thời, đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong triển khai thực hiện nhằm xây dựng nhân tố chính trị - tinh thần.

Hai là, thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục quốc phòng và an ninh cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân nâng cao nhận thức, tư tưởng cách mạng, khơi dậy tinh thần yêu nước, tự tôn dân tộc; củng cố lòng tin với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa và công cuộc đổi mới, tạo sự đồng thuận, nền tảng tinh thần xã hội vững chắc. Kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” Quân đội; kích động, gây rối, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ Đảng, Nhà nước, Quân đội với Nhân dân của các thế lực thù địch. Đặc biệt, tăng cường giáo dục, bồi dưỡng tinh thần yêu nước, xây dựng và củng cố niềm tin, mục tiêu, lí tưởng chiến đấu, lòng trung thành vô hạn với Đảng, Tổ quốc và Nhân dân của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang; xây dựng Quân đội thực sự tinh nhuệ về chính trị, làm nòng cốt cùng toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Ba là, đẩy mạnh phát triển kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Đây là vấn đề mấu chốt của lí luận đổi mới, nội dung rất quan trọng trong xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần hiện nay. Lấy phát triển kinh tế làm trung tâm, nỗ lực phát triển sức sản xuất, đổi mới mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, bền vững. Tiếp tục thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội ngay trong từng bước đi, từng chính sách cụ thể, phù hợp với từng giai đoạn phát triển; bảo đảm trong mỗi chính sách phát triển kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; khắc phục tình trạng chạy theo lợi ích kinh tế đơn thuần, không quan tâm đúng mức các giá trị văn hóa, xã hội của dân tộc. Cùng với đó, chú trọng hoàn thiện, thực hiện có hiệu quả các chính sách, phúc lợi xã hội, bảo đảm công bằng, hợp lí, không thực hiện cào bằng; làm tốt công tác xóa đói, giảm nghèo bền vững; đầu tư phát triển y tế, giáo dục, văn hóa; cải thiện an sinh xã hội, bảo đảm thu nhập, giải quyết việc làm cho người lao động, thu hẹp bất bình đẳng xã hội, xây dựng môi trường sống lành mạnh, hạnh phúc cho nhân dân.

Bốn là, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh là yêu cầu quan trọng, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng, góp phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tính đồng bộ, sự phù hợp giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, đưa nước ta phát triển nhanh, bền vững. Kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ đủ năng lực, phẩm chất và uy tín; xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.

Có thể khẳng định: Nhân tố chính trị, tinh thần là ưu thế tuyệt đối, là ngọn nguồn sức mạnh quyết định thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước của dân tộc ta. Đó là chiến thắng của truyền thống chống giặc ngoại xâm được phát huy cao độ trong thời đại Hồ Chí Minh, với tinh thần độc lập tự chủ, ý thức tự lực, tự cường Việt Nam. “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mĩ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử của dân tộc như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỉ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và mang tính thời đại sâu sắc”2. Trong bối cảnh hiện nay, nhiệm vụ xây dựng và phát huy sức mạnh chính trị - tinh thần của dân tộc vẫn là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, yếu tố cốt lõi của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân. Hơn lúc nào hết phải tiếp tục bồi đắp, gìn giữ, phát triển sức mạnh chính trị - tinh thần của dân tộc lên tầm cao mới, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

V.T.N

----------------------

1. Mắc Na-ma-ra: Nhìn lại quá khứ - Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 316.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 471.