Thứ Năm, 14/08/2025 10:32

Một lịch sử châm biếm bị lãng quên

Hiếm có nhân vật nào của Jane Austen lại thoát khỏi sự châm biếm nhẹ nhàng trong giọng văn giễu nhại nổi tiếng của bà.

Từ sự trưởng giả phù phiếm của Sir Walter Elliot trong Thuyết phục, tính cách đặc biệt của Elizabeth Bennet trong Kiêu hãnh và định kiến đến thói quen đọc sách hời hợt của Isabella trong Tu viện Northanger, hiếm có nhân vật nào của Jane Austen lại thoát khỏi sự châm biếm nhẹ nhàng trong giọng văn giễu nhại nổi tiếng của bà.

Tuy nhiên, Austen cũng như nhiều nhà văn nữ cùng thời khác như Frances Burney, Eliza Haywood, Mary Robinson… hầu như luôn vắng bóng trong lịch sử châm biếm. Điều này không liên quan đến việc liệu tác phẩm của họ có mang tính châm biếm hay không (bởi vì chúng rõ ràng là vậy!) mà có kết nối nhiều hơn đến cách hiểu “đầy vấn đề” của chúng ta về thể loại này. Theo nhà văn Dustin Griffin, châm biếm thường được định nghĩa là một tác phẩm được tạo ra để “tấn công vào các tệ nạn hoặc sự ngu xuẩn” bằng cách sử dụng “sự dí dỏm hoặc chế giễu; cũng như sự phóng đại và một số hình thức hư cấu khác”.

Jane Austen tìm thấy nhiều điều để chỉ trích xã hội thời Nhiếp chính và đã làm điều đó một cách khéo léo trong nhiều tác phẩm.

Tương tự như vậy, Austen (giống như rất nhiều phụ nữ khác) đã dùng châm biếm và hài hước để phê phán “hoàn cảnh” của mình trong một xã hội gia trưởng, và bằng cách đó, bà kiên trì thách thức những giả định đã ăn sâu vào tiềm thức về địa vị của người phụ nữ như một “tài sản” thụ động, phụ thuộc vào đàn ông. Như nhà phê bình văn học Rachel Brownstein từng nói một cách đáng lưu ý rằng phụ nữ thời đó luôn trải qua “sự hai mặt” liên tục, thường trở thành “sự tự nhận thức đầy mỉa mai của một sinh vật lí trí bị mắc kẹt một cách vô lí trong vai trò của người phụ nữ”.

Khi được yêu cầu nêu tên các nhà châm biếm thế kỉ 18, chúng ta thường đối mặt với cùng một danh sách các tác giả: Jonathan Swift – cha đẻ của Gulliver du kí (1726), Alexander Pope - tác giả của The Dunciad (1728) và đôi khi là Henry Fielding - tác giả của Tom Jones (1749). Thông thường, danh sách sẽ tạm ngừng và chỉ nối dài cho đến một thế kỉ sau với Charles Dickens (trong các tác phẩm như The Pickwick Papers (1837), Hội chợ phù hoa (1848) của William Makepeace Thackeray và The Way We Live Now (1875) của Anthony Trollope...

Không quá khó thấy những nhà văn nữ không được nhắc đến dù cho tác phẩm của họ rất đỗi thú vị. Đơn cử An Essay on the Art of Ingeniously Tormenting (1753) của Jane Collier là cuốn sách châm biếm về cách thay vì khuyên bảo phụ nữ trẻ cách trở thành những sinh vật nữ tính, dịu dàng, lại chỉ cho họ những “mẹo” để tra tấn chồng. Cuốn sách đặt ra câu hỏi đầy tính giễu nhại: Tại sao lại phải giết chồng trong khi sẽ thỏa mãn hơn nếu “hủy hoại họ từng chút một” bằng sự cằn nhằn? Ngoài ra còn có The Parrot (1746) của Eliza Haywood lấy góc nhìn của một con vẹt xanh trong lồng, mệt mỏi vì bị vật hóa và bị coi là “kẻ ba hoa dễ thương” .

Millenium Hall (1782) cũng không ngoại lệ, chứa đầy những quan sát cay độc của Sarah Scott kể về một nhóm phụ nữ quyết định từ bỏ hoàn toàn xã hội gia trưởng và thành lập một môi trường riêng, chỉ dành cho phụ nữ. Walsingham (1797) của Mary Robinson cũng phơi bày nhiều mâu thuẫn của xã hội phân biệt giới tính ở Anh thế kỉ 18 bằng cách kể câu chuyện về một cô gái được nuôi dưỡng như một cậu bé bởi cha mẹ luôn mong muốn có một người thừa kế nam...

(Từ trái sang) Frances Burney, Eliza Haywood, Jane Collier, Jane Austen và Sarah Scott.

Khi còn nhỏ, Austen rất thích Evelina (1778) của Frances Burney - cuốn tiểu thuyết về một cô gái trẻ khi lần đầu đến Bath đã không thể nhịn cười trước sự phi lí tột độ của xã hội thượng lưu. Tương tự, tiểu thuyết khuyết danh The Woman of Color (1808) kể về nhân vật nữ trẻ tuổi sinh Olivia Fairfield ra ở Jamaica đến Anh để giành quyền thừa kế, nhưng rồi phát hiện ra rằng giới thượng lưu mà cô được nuôi dạy để ngưỡng mộ thực chất lại man rợ và đầy ngu ngốc. Ngay cả Charlotte Brontë cũng thường châm biếm. Brontë, theo đó, là người ngưỡng mộ William Makepeace Thackeray và đã đề tặng ông trong ấn bản Jane Eyre (1847) thứ hai của mình. Như chuyên gia văn học thế kỉ 19 Jo Waugh gần đây đã nhận xét Brontë cũng thông qua nhân vật Currer Bell để châm biếm trong suốt sự nghiệp, thậm chí còn đưa ra lí thuyết châm biếm riêng.

Nói về lí do vì sao những nhà văn nữ không xuất hiện trong danh sách các nhà văn châm biếm vĩ đại của thời kì đó, thì một trong những nguyên nhân quan trọng là do các tác phẩm này đã biến mất suốt một thời gian dài. Theo đó, nhiều tiểu thuyết nói trên chỉ mới được phục hồi và công bố trở lại trong 50 năm qua. Nhưng bao trùm hơn cả còn là cách chúng ta nói về châm biếm. Theo đó, định nghĩa thuần túy nhất của châm biếm là phê phán một điều gì đó mà tác giả thấy lố bịch, ngu ngốc hoặc hiểm nguy, và sử dụng một số hình thức bóp méo như một phần của lời phê phán. Điều này thường mang hình thức phóng đại, nhưng cũng có thể là đảo ngữ hoặc ẩn dụ. Tuy nhiên khi nói về châm biếm, mọi người thường nghĩ nó như hành động cắn xé, xuyên thấu và bạo lực.

Đơn cử các nhà châm biếm nam từ nhà thơ La Mã Juvenal đến John Dryden và Jonathan Swift thường được hình dung như một “nhân vật được kẻ vũ trang bằng lòng căm phẫn chính đáng, từ đó thúc đẩy họ tấn công một thế giới đã sụp đổ”. Đây là hình ảnh bắt nguồn từ các lí thuyết châm biếm thời Phục Hưng và được sửa đổi đôi chút trong những cuộc tranh luận bất tận nhưng hiếm khi khách quan về việc châm biếm nên như thế nào vốn thống trị suốt thế kỉ 18. Kết quả là, ta đi đến một định nghĩa về châm biếm được “chiếm giữ” bằng ngôn ngữ nam tính. Rất nhiều định nghĩa, ngay cả ngày nay, vẫn nói về châm biếm là “tấn công” thay vì “phê bình”. Nhưng với Austen và trong các tác phẩm của những người phụ nữ cùng thời, ta thấy một kiểu châm biếm rất khác. Điều thú vị mà rất nhiều lời giễu nhại và đáp trả do những nhà văn nữ tạo ra là đối tượng của họ thậm chí còn không nhận ra mình đang bị châm biếm, bởi lời lẽ ấy quá chi tinh tế. Virginia Woolf đã nói rất hay khi mô tả về tính chất này của Jane Austen: “Nốt nhạc không bao giờ hòa lẫn vào phần còn lại, vang lên rõ ràng và xuyên suốt toàn bộ tác phẩm thực chất là gì? Đó là tiếng cười. Cô gái 15 tuổi đang cười cả thế giới trong góc phòng mình”.

Bù vào đó, có một sự thật được công nhận rộng rãi là 2 thế kỉ sau khi Jane Austen qua đời, sự yêu mến dành cho tác phẩm của bà và thế giới văn học thời kì nhiếp chính mà bà đại diện vẫn còn sống động hơn bao giờ hết. Bản thân Austen hẳn cũng phải ngạc nhiên về điều này, bởi lẽ bà từng phải mua lại bản thảo đầu tiên từ một nhà xuất bản vì nó không mang lại thành quả gì và được xuất bản ẩn danh khi bà còn sống. Tuy nhiên, rất nhiều người vẫn cảm thấy gắn bó với bà và những tác phẩm của bà đến tận ngày nay.

Vào cuối tháng 6 vừa qua, một cuộc đấu giá từ thiện cho Hội Văn học Hoàng gia đã trưng bày những ghi chú viết tay của các tác giả như Margaret Atwood, Kazuo Ishiguro, Ian McEwan.... suy ngẫm về mối quan hệ của mình với Austen và ảnh hưởng của bà đối với tác phẩm của họ. Atwood nhớ lại rằng ở tuổi 12 bà từng ước mình có thể từ chối giáo viên thể dục giống như cách Elizabeth Bennet đã làm với Phu nhân Catherine de Bourgh. Bà viết: “Tôi đặc biệt thích cảnh Elizabeth Bennet hạ bệ Phu nhân de Bourgh. Tôi cũng muốn làm điều tương tự với giáo viên thể dục của mình, nhưng chưa có dịp”. Có thể nói các nhân vật của Austen mang lại cho độc giả nhiều điều hơn chỉ mỗi sự lãng mạn, và đây là một phần tạo nên sức hấp dẫn dài lâu dài của nhà văn này.

NGÔ THUẬN PHÁT dịch từ The Conversation