Thứ Sáu, 19/09/2025 00:03

Một dòng chảy lạ

...giữa bao ồn ào, bon chen, vẫn giữ được một vệt sáng rất lặng, rất nhân ái, rất buông, thì đúng là hiếm như tìm được một dòng suối trong giữa sa mạc đầy gió bụi... (NGUYỄN PHƯỚC THẢO)

(Đọc Cúi mình xuống lượm hột cơm rơi, tập thơ của Nguyễn Thị Kim Tuyến, Nxb Văn học, 2025)

. NGUYỄN PHƯỚC THẢO

Lướt qua những trang thơ, cảm nhận đầu tiên của tôi là thơ của Tuyến lạ, giữa bao ồn ào, bon chen, vẫn giữ được một vệt sáng rất lặng, rất nhân ái, rất buông, thì đúng là hiếm như tìm được một dòng suối trong giữa sa mạc đầy gió bụi.

Nhà chật đọc thoáng qua, chỉ thấy những hình ảnh đơn sơ: vạt cỏ, tiếng chim, chút nắng, vạt sách cũ, bếp lửa nguội, ly trà chát... nhưng lắng sâu mới hay đó là một bản tuyên ngôn thầm lặng của một kẻ sĩ thực thụ. Người viết không cần khoe khoang lòng thanh bạch, không cần đao to búa lớn tuyên bố coi thường lợi danh, mà chỉ lặng lẽ trình bày căn nhà chật như chính một nếp sống khiêm cung, một thế giới nội tâm rộng thênh thang.

Một chút ớt
một chút cơm
một chút cà
một chút bếp lâu ngày quên ấm lửa
bạn ngồi thêm chút nữa
khói bay lên vạt trời mông minh…

Bài thơ âm thầm nói với người đọc rằng, giàu hay nghèo không đo bằng vật chất bên ngoài, mà đo bằng độ chân thật người ta biết trao đi, đo bằng một ánh nhìn ấm, một tiếng cười không nhuốm bụi đời.

Ngoài bậc cửa kia lắm thứ rộng rinh
đứng bên đó bạn nghĩ tôi phải
thế này thế khác
bước vào đây chột lòng thấy
nhà tôi chật
tần ngần nỗi gì
bạn nán lại với tôi
thì rồi mấy thuở bạn đến chơi
một vạt nắng
một vạt sân
vẫn có chỗ bạn ngồi
chưa bao giờ tôi thấy nhà rộng thế…

Cái hay, cái sâu của bài thơ là ở sự lặng im không cần minh chứng: nhà chật, nhưng lòng rộng; đời đạm bạc, nhưng khí phách âm thầm rực rỡ. Nhà chật vì thế không chỉ là bài thơ về một căn nhà, mà còn là bài thơ về một tâm hồn: không cần phô bày, không cần gào gọi, chỉ cần sống trọn với ánh sáng mềm trong lòng mình - như một dòng sông lặng chảy qua đá bờ cồn bãi.

Bài thơ Hẹn nhau đến già mở ra như một lời thì thầm nhắc nhớ về những lời hẹn từng rất đẹp nhưng cũng rất mong manh, giữa đời người nhiều bận rộn, nhiều chia li.

Mình hẹn nhau đến già
ngồi đo tuổi trẻ
nặn vò giấc mơ buông dở
bờ vai gầy chưa bao giờ tựa
bàn tay gầy chưa bao giờ cọ…

Cái “hẹn” ban đầu thật hồn nhiên, tưởng như chỉ cần ngồi xuống, nặn lại giấc mơ buông dở, là đã đủ đi hết cuộc đời cùng nhau.

Nhưng đời sống không vận hành theo ước mơ, ai cũng có những bận lòng riêng, những lần bôn ba, những lần tảo tần, những chỗ gãy đổ mà thời gian âm thầm mài mòn không thương tiếc.

Hẹn nhau đến già
lần dò qua mấy nhịp trầu cau
lời đã hứa theo chiều vàng rượm
trầu đã héo và cau đã rụng
ai quệt thêm vôi cho bạc tuổi dày?

hẹn nhau đến già
đem thương nhớ so dây
thả kí ức bay cánh diều hư ảo
rải ồn ào sau lưng miền giông bão
tìm chỗ ngồi đâu đó
lặng lẽ đau…

Bài thơ không trách, không oán, mà chỉ lặng lẽ ghi nhận: rằng khi cau rụng, khi trầu héo, thì lời hứa cũng theo đó mà nhòe đi trong nắng chiều. Nhắc người đọc rằng, đôi khi lớn lên trong yêu thương không phải là giữ lời hẹn đến cùng, mà là biết mỉm cười buông tay khi lời hẹn đã mờ, biết dành cho người và cho chính mình một chỗ ngồi yên, không còn hối tiếc. Hẹn nhau đến già vì vậy không phải là bài thơ về sự chung thủy, mà là bài thơ về sự trưởng thành trong tình yêu - trưởng thành đủ để lặng im khi yêu thương đã hóa thành cánh diều bay xa khuất.

Miên man là bài thơ không chỉ kể về một cuộc tình xa, mà còn tạc lại một thứ tình yêu đã chín, đã sâu đến mức vượt qua mọi oán trách. Ngay từ những câu đầu, bài thơ mở ra một không gian hoang vắng: cát đã thôi thì thầm, bờ đã ngoảnh mặt, màu sim tím là thứ duy nhất còn đọng lại. Người đọc cảm thấy rõ nỗi buồn lan tỏa từng trang chữ, nhưng cái lạ là: trong suốt mạch thơ, tuyệt nhiên không một lời trách móc nào được thốt ra. Ngay cả khi lặn vào nhau như triều dâng, ngay cả khi đau đớn bởi mảnh ốc vô tình cứa máu bàn chân, nhân vật trữ tình vẫn chỉ nhẹ nhàng tự trách mình nông nổi, tự thở dài với kí ức, mà không oán hận người rời bước.

…ồn ào là em còn anh thì
phẳng lặng
anh đâu mãi bến bờ
sao em mãi sóng
miên man
…biển tắt sóng đâu còn là biển nữa
em chẳng còn anh sao
cháy mãi khát khao…

Cái đắt nhất của bài thơ nằm chính ở đây: khi yêu đủ sâu, người ta sẽ không còn hờn trách. Khi đã dâng hiến trọn vẹn, khi đã sống hết mình cho yêu thương ấy, thì kết cục có ra sao cũng chỉ nhận về một sự lặng lẽ cam chịu, không đòi hỏi, không buộc tội.

Đã có lúc thôi nhìn về phía biển
kệ những cạn sâu chát mặn vơi đầy
buộc vào gió đôi sợi lòng lưu luyến
ngỡ quên rồi mà nhung nhớ
buông dây…

Miên man vì vậy là bài thơ không phải kể khổ, mà ca ngợi sự trưởng thành trong yêu, khi yêu đủ sâu để chấp nhận mất mà không còn oán than.

Thật là bài thơ nói về cuộc đối thoại giữa hai người, và sâu xa hơn, đó là cuộc đối thoại giữa bản ngã và bản tánh trong chính lòng người viết. “Anh” và “tôi” tuy hai mà một - cùng tồn tại, cùng giằng co trong một cõi lòng chưa ngã ngũ. Cái “thật” trong bài thơ vì thế không hề đơn giản. Nó là một nỗi tự vấn day dứt: Tôi thật hay anh mới thật? Cái im lặng vững chãi kia là chỗ “tôi” hướng tới, hay chính cơn sóng lòng đang gào thét này mới là phần người không thể chối bỏ?

Nào rót đi
rót thẳng vào tim
xộc xệch chút thôi có gì đâu ngại
anh sợ tôi vờ khôn vờ dại?
tôi sợ mình
ngày hôm sau phải chỉn chu đạo
mạo tử tế đàng hoàng…

Việc tác giả lặp lại nỗi sợ phải đạo mạo, chỉn chu… không phải vì còn nông nổi, mà vì đã đủ tỉnh táo để nhận ra: mình đang bị đời ép vào một khuôn hình giả tạo, và trong thẳm sâu vẫn còn một tiếng lòng khao khát giữ nguyên sự hoang dại, sự chân thành.

Kệ người đi
chóng chánh đảo điên
đường có vắng bước chân còn
tiếng lá
gió ngả nghiêng hay lòng
nghiêng ngả
va vào đêm
va vào người
vào cõi lạ
nguồn cơn
tôi sợ
ngày mai
mở mắt ra lại buộc mình
phải đạo mạo đàng hoàng
tử tế chỉn chu hơn…

Bài thơ kết lại bằng tiếng “kệ người”, tưởng như buông, nhưng thật ra chỉ mới là sự buông trong mệt mỏi, chưa phải sự buông của một lòng lặng hẳn. Một bài thơ đẹp, bởi thật. Thật đến độ không cần cố gắng chứng minh điều gì.

Tự thú là bài thơ trần trụi, gai góc, dữ dội bề ngoài nhưng lặng thẳm bên trong. Nó không ngợi ca, không tô hồng, không ve vuốt tâm hồn bằng những lí tưởng mơ hồ; nó là cuộc đối mặt không khoan nhượng giữa con người với chính mình - đối mặt với cái phần thấp hèn, phần thú tính, phần ma quỷ còn quẫy đạp trong máu thịt.

Hỡi cái gã có quyền năng tạo ra
thế giới
sao nặn ra ta chỉ nửa mặt người
nửa mặt kia khó coi như thể
nửa hươu nửa khỉ nửa đười ươi…

Ngay từ những câu đầu tiên, tác giả đã xé toạc lớp mặt nạ xã hội: nhận mình chỉ là “nửa mặt người”, “nửa hươu nửa khỉ nửa đười ươi”, thẳng thắn thừa nhận rằng trong cái vỏ người tưởng nghiêm trang đó, bản chất vẫn đầy bản năng, sân si, ích kỉ, ham danh lợi, mê đắm yêu ghét.

Bạo chúa trong mơ múa may kiếm thật
diêm dúa phục trang ảo giấc hoàng bào
đạp gót mình tưởng có người phủ phục
mở mắt hỏi ông trời ta ngủ lâu mau

Thế nhưng, cái sâu sắc nhất chính là hành trình tự nhận diện và tự ngộ.

Chừa một ngày thôi không bóng tóc
thôi lộng ngôn cười khóc nhập nhòe
vác rìu làm tiều phu cực nhọc
đốn tre về làm cái thang tre

Bắc thang lên chín tầng mây lôi cổ
ông trời xuống
dọn mâm rồi ngồi uống đã đi!
uống cạn nhân gian nói cho ta biết
người và ma có lúc khác gì?

Khi tác giả dám tự hỏi “rốt cuộc ta người hay ma nhỉ?”, thì đó chính là lúc ánh sáng đầu tiên lóe lên từ trong lòng tối. Bởi chỉ khi một người đủ can đảm nhận ra mình đang là gì - không đổ lỗi cho trời đất, không trách cứ nhân gian - thì duyên giác ngộ mới thực sự khởi sinh.

Đặc biệt, câu kết “nếu là người xin thử hóa lân tinh” chính là đỉnh cao của bài thơ. Lân tinh không phải thứ ánh sáng vĩ đại chiếu rọi nhân gian, mà là ánh sáng nhỏ nhoi của những linh hồn tự biết mình đã từng lầm lạc, từng trôi lăn, và giờ tự thắp lên một ánh sáng đủ để bước tiếp trong đêm sâu. Tự thú là một tiếng nói kiêu hãnh của một linh hồn đã dám trần trụi trước chính mình, đã dám thừa nhận bóng tối trong mình, và đã khẽ thắp lên một ngọn đèn nhỏ, bước đi, không ồn ào, không cần ai chứng kiến.

Thơ Nguyễn Thị Kim Tuyến không khoa trương, không phô diễn những sáo ngữ lớn lao, mà như một dòng nước nhỏ, thầm chảy qua từng kẽ nứt của tâm hồn người đọc. Dù ở Nhà chật khiêm nhường, Hẹn nhau đến già tha thiết, Miên man chao nghiêng giữa yêu thương và mất mát, Thật giằng co giữa bản ngã và bản tánh, hay Tự thú dữ dội rồi lặng xuống trong tiếng tự vấn thầm thì…, tất cả đều bật lên một vệt sáng chung: một linh hồn dám soi, dám nhận, dám tự ngộ. Đọc chị, ta không thấy những lời hoa mĩ ca tụng bản thân hay trách móc cuộc đời. Chỉ thấy một người đàn bà - từng trải, va vấp, đau đớn - nhưng biết lặng lẽ cầm ngọn đèn lân tinh soi vào chính những mảnh vỡ của mình, và mỉm cười đi tiếp.

Trong một thời đại mà phần lớn thơ ca còn ưa phô trương những cái đẹp gọt giũa, thì thơ Nguyễn Thị Kim Tuyến lặng lẽ như một dòng suối ngầm: ai đủ lặng lòng mới nghe được tiếng nước chảy thầm…

N.P.T