Thứ Tư, 03/12/2025 00:12

Lính trận về với Thủ đô

Tưởng là mơ ước đến với Hà Nội của tôi chìm mãi trong lửa đạn. Nhưng kì diệu thay, giữa những ngày chiến tranh vô cùng khốc liệt ở chiến trường... (Kí của THÁI CHÍ THANH)

. THÁI CHÍ THANH
 

Từ ấu thơ, Thủ đô Hà Nội đã lung linh trong tôi những hình ảnh thật thiêng liêng, quyến rũ: chùa Một Cột xinh xắn và trang nghiêm, bóng Tháp Rùa soi lẫn trong mây trắng Hồ Gươm, sương mờ bảng lảng sóng nước Tây Hồ, hay con đường thơ mộng ngát mùi hoa sữa, thấp thoáng bóng áo dài của các cô gái thanh lịch... Tình yêu Hà Nội trong tôi cứ lớn mãi, đẹp mãi rồi trở thành niềm ao ước đến nao lòng. Nhưng ao ước đó ngày một xa vời khi đất nước trải qua những năm tháng chiến tranh, thế hệ chúng tôi không có lựa chọn nào khác là dấn thân lên đường vào Nam...

Tưởng là mơ ước đến với Hà Nội của tôi chìm mãi trong lửa đạn. Nhưng kì diệu thay, giữa những ngày chiến tranh vô cùng khốc liệt ở chiến trường Thượng Đức, đầu tháng 9/1974, tôi được lệnh ra Bắc tập huấn toàn quân gần hai tháng, chuẩn bị cho những chiến dịch lớn năm sau. Niềm vui quá lớn, quá bất ngờ làm tôi cứ như kẻ mộng du. Chia tay anh em đơn vị để ra Hà Nội mà ngỡ mình đang mơ...

Lên Bộ Tư lệnh tiền phương Sư đoàn 304A nhập nhóm quân ra Bắc tập huấn, Đại úy Bùi Lơm - người của ban tác chiến sư đoàn ôm chầm lấy tôi, mừng rỡ:

“May quá, cậu còn sống... Tớ cứ lo là Thượng Đức nuốt chửng mất cậu thì uổng quá...”

“Sao lại uổng ạ?”

“Thì ít ra cũng thưởng công cho cậu cái vụ cải tiến súng kẹp nòng hồi tập huấn ở Cam Lộ ấy...”

Bấy giờ tôi mới hiểu vì sao mình lại có mặt trong đội quân tập huấn này. Chả là năm trước, sau Hiệp định Paris, Sư 304A tập trung phần lớn cán bộ trung - tiểu đội về Cam Lộ tập huấn kĩ - chiến thuật. Anh em chúng tôi là lính chiến đã đánh bao trận, bắn bao đạn, mòn tay bóp cò nên chuyện tập tành có vẻ ngán, nhất lại là mấy ông ban tác chiến ra trận thì ít, hò hét thì nhiều trực tiếp hướng dẫn nên chúng tôi tỏ ra thờ ơ, thậm chí xem thường. Đại úy Bùi Lơm, người phụ trách các môn kĩ thuật có ấn tượng rất xấu với cái lán D19 - là tiểu đội toàn cán bộ đặc công, vừa ngang như cua lại hay lí sự, nên ra tay rèn giũa. Thế là hết báo động lại phạt chạy vũ trang, nhiều khi ra tình huống oái oăm như cõng thương binh hay truy kích địch, chúng tôi mệt đứt cả hơi. Kỉ luật quân đội thì phải chịu chứ tôi và anh em ấm ức lắm.

Cho đến một hôm, kiểm tra bắn đạn B40, B41, chúng tôi không được bắn đạn thật mà bắn kẹp nòng với súng AR15, nghĩa là cứ thao tác với súng B40, B41 rồi bóp cò, nhưng đạn súng AR15 sẽ nổ. Nhìn hệ thống chuyển động từ cò súng B41 hoặc B40 đến cò súng AR15 loằng ngoàng dây kéo và ròng rọc, ai cũng ớn.

“Sao các thủ trưởng không cho bắn đạn thật luôn mà kẹp nòng như... như trò chơi thế này, chán lắm...”

Một anh bạn thân của tôi phàn nàn, lập tức Đại úy Lơm đứng cạnh đấy quạt ngay:

“Đồng chí có biết để bắn mỗi người một quả đạn B40, B41, đợt này ta mất bao nhiêu không. Lại còn những đợt tiếp. Đạn phải dành cho mặt trận chứ. Bắn thế này vừa tiết kiệm lại vừa an toàn”.

“Tiết kiệm thì có chứ an toàn thì không”. - Tôi đứng cạnh cũng lên tiếng.

Đại úy Lơm nhìn tôi tỏ ra khó chịu:

“Anh em quân huấn đã vất vả lắm mới sáng chế được như thế này đấy. Đã không biết lại còn lắm chuyện”.

Tưởng chuyện chỉ có vậy, nào ngờ hôm sau nhân ngày nghỉ, tôi mượn anh tiếp phẩm cái xe đạp ra chợ Mai Lộc để mua rượu về cho lán ăn tươi. Xe cũ, phanh không ăn, đường lại lắm dốc, nên trong lúc tôi vặn chỉnh lại phanh bỗng lóe lên ý tưởng: sao không sử dụng kiểu truyền chuyển động như phanh xe đạp vào súng kẹp nòng nhỉ. Mừng quá, tôi về trao đổi với anh em và đi mời Đại úy Lơm xuống uống rượu và nghe anh em lán “ngang như cua” trình bày về việc thay hệ thống dây, ròng rọc trong súng kẹp nòng bằng vỏ và ruột dây phanh xe đạp. “Quá tuyệt! Vừa đơn giản, vừa an toàn”. Đại úy Lơm thích quá, quên mình là thủ trưởng, cũng reo lên như chúng tôi và còn thưởng nóng cho cả lán một gói trà Ba Đình và hai bao thuốc lá Trường Sơn, là tiêu chuẩn hàng tháng của cán bộ trung cấp.

Vì vậy, nhân đợt tập huấn toàn quân này, đại úy tiến cử tôi vào danh sách. Ngoài tôi, Đại úy Lơm, Sư 304 còn có Trung úy Đại đội trưởng Phan Nguyện từ Trung đoàn 24 nữa. Trong ba người, tôi là trẻ nhất, mới 21 tuổi, chức vụ và quân hàm cũng thấp nhất, mới thượng sĩ và trung đội trưởng. Ấy thế nên được phân công vác khẩu súng to nhất, nặng nhất là B41 từ chiến trường về thủ đô. Tất nhiên rồi, “chức to thì súng nhỏ. Chức nhỏ thì súng to”. Tôi nói vui vậy chứ được ra Bắc thì có bắt tôi vác cả khẩu cối 82 li tôi cũng vui lòng.

Chúng tôi mất 2 ngày, khi cuốc bộ, khi nhờ xe tải, xe đò ra đến Đông Hà, nhập với đội quân tập huấn của Quân đoàn 2, có xe ca chở thẳng ra Hà Nội. Háo hức, xúc động tràn ngập chúng tôi theo vòng bánh xe lăn…

Càng đến gần Hà Nội, không khí trong xe càng sôi nổi. Anh em từ các chiến trường, từ nhiều miền quê khác nhau, nhưng qua những câu chuyện kể, tôi thấy ai cũng dạt dào tình yêu Thủ đô. Người ta thi nhau kể truyền thuyết xa xưa, những tấm gương làm nên hào khí Thăng Long, đến cả những chuyện về Tạ Đình Đề như huyền thoại, rồi chuyện “Đại tá SS” ăn cắp giỏ như thần, chuyện ngổ ngáo thanh niên mặc quần ống tuýp, tóc cao bồi, người ta kể rồi cười hả hê, không có gì là phê phán mà hình như cũng đầy thiện cảm.

Đến bến xe Kim Liên, Đại úy Lơm và Trung úy Nguyện quê ở gần, tranh thủ về thăm nhà, sáng hôm sau sẽ nhập Binh trạm 66. Những người khác tản ra, tranh thủ thăm hỏi người quen, đưa thư từ, quà cáp bạn bè nhờ. Tôi một mình, chẳng quen biết ai, ngơ ngác giữa bến xe ồn ã, nhưng lòng vẫn tràn ngập cảm xúc bâng lâng, rất lạ.

Tôi mang ba lô, vác khẩu súng B41 lũi cũi bước ra khỏi bến xe một đoạn, ngơ ngác nhìn quanh, bắt gặp một hồ nước lớn. Ngỡ là hồ Hoàn Kiếm, tôi thần người ngắm nhìn.

“Chú bộ đội ơi... Mời chú ngồi xơi nước!”

Nghe tiếng mời, tôi giật mình nhìn quanh, thấy dưới tán một cây si râm mát, ven bờ hồ cách không xa có một quán cóc. Tôi gật đầu chào bà cụ đang vẫy mình lại rồi chỉ vào mấy cái ghế gỗ nhỏ. Tôi đặt ba lô và súng xuống bên cạnh, kéo ghế ngồi trước bàn, từ tốn:

“Mẹ ơi... Đây có phải hồ Hoàn Kiếm không ạ? Răng chẳng thấy Tháp Rùa?”

“Không phải hồ Hoàn Kiếm mà đây là hồ Thiền Quang. Chắc chú vừa trong Nam ra?” Vẫn giọng nhỏ nhẹ, bà cụ rót trà từ ấm tích vào cái chén bé xíu. “Chú bộ đội uống nước đi... Lập thu rồi mà vẫn oi quá chú nhỉ?” Bà cụ nói rồi xòe chiếc quạt giấy quạt cho mình rồi quay sang quạt cho tôi. Tôi vừa uống nước vừa tò mò nhìn tốp thanh niên ăn mặc vừa đẹp, vừa lạ đang đi ven hồ. Chợt thấy mấy cậu choai choai quần ống tuýp luẩn quẩn gần quán cóc, tôi tự nhắc phải cảnh giác, vội kéo chiếc ba lô lại gần. Hình như bà cụ hiểu được tâm trạng của tôi nên khẽ mỉm cười. Giờ tôi đang khát mà chén trà lại bé xíu, nên uống liền tù tì mấy chén. Thấy vậy bà cụ hỏi:

“Chú uống cốc trà đá cho mát nhé?”

Rồi chẳng để tôi có đồng ý hay không, cụ đã làm cho một cốc trà đá to. Trà đá mát tê cả lưỡi, nước chảy đến đâu lịm người đến đó. Muốn uống thêm cho đã, nhưng không biết giá bao nhiêu, tôi bèn nhỏ nhẹ:

“Dạ... nước mát quá... Bao nhiêu một cốc nước trà đá ạ?”

Bà cụ nhìn tôi, chỉ cười hiền mà chẳng trả lời. Cụ lại lấy cốc tôi vừa uống cạn pha cho cốc khác. Nhìn cụ làm thật khéo, chế một ít từ ấm trà đặc sang cốc rồi lấy muôi xúc vào một cái phích lùn lùn bằng sắt trắng múc ra một muôi đá đã đập vụn, cho vào cốc, lắc lắc mấy lần cho đá tan mới đặt xuống trước mặt tôi:

“Chú uống cho mát. À... Có hút thuốc lá không?”

Tôi gật đầu. Bà cụ mở hộp gỗ vuông vức, nắp bằng kính lấy bao thuốc lá Điện Biên cùng bao diêm Thống Nhất để trước mặt. Tôi khoan khoái hít mấy hơi dài, nhìn bà cụ sau làn khói thuốc. Trông bà thật phúc hậu và có cái gì đó vừa gần gũi vừa quý phái, lại rất khéo bán hàng, mời tôi uống hết trà lại nước đá, rồi thuốc lá ngon mà tôi không nỡ nào từ chối. Đúng là người Hà Nội, lịch lãm đến thế là cùng. Nhưng… liệu hết bao tiền đây? Đầu tôi đang lởn vởn ý nghĩ thì có một thanh niên đầu tóc bù xù, dài đến vai, quần ống tuýp đến ngồi xuống bên cạnh, hất hàm nói:

“Bà khốt cho chén trà”.

Nói rồi, anh ta tự tay mở hộp thuốc lá lấy một điếu thuốc Đồ Sơn, vuốt vuốt, lăn lăn cho điếu thuốc tròn, lại thúc thúc đầu điếu lên mặt bàn mấy lần mới lấy bao diêm trước mặt tôi, lẩy ra một que và bằng động tác rất điệu nghệ, bật xòe lửa chỉ bằng một tay mới châm thuốc hút. Hít một hơi thật dài, người thanh niên ngửa cổ, thả từng vòng khói trắng bay lên lồng vào nhau rồi tan biến. Tôi đang mê mẩn nhìn người thanh niên chẳng mấy cảm tình thì anh ta bỗng hỏi bà cụ:

“Cụ khốt nhà mình đỡ chưa?”

Bà cụ thở dài:

“Tâm bệnh ấy mà, sao khỏi được. Chỉ có thằng Anh hay thằng Dũng bỗng khoác ba lô về thăm, ông ấy khỏe liền. À này! Hay chốc cậu về bảo bố cậu sang chơi cờ cho ông ấy khuây khỏa”.

“Vâng!”

Cậu thanh niên đáp vẻ hững hờ rồi bỗng chằm chằm nhìn vào ba lô và khẩu súng của tôi. Hành động này nhắc tôi phải hết sức tập trung. Cậu ta hướng mặt lên nhìn tôi, trầm trồ:

“Chà chà... Oách thật! Anh bộ đội ơi... Có phải súng chống tăng B40 không? Nghe nói B40 bắn xe tăng chảy thành nước? Kinh thật đấy!”

Tôi bật cười, giải thích:

“Đúng là súng chống tăng, loại này là B41, bắn xa hơn, hiện đại hơn B40, đạn lõm nổ xuyên thủng lô cốt bê tông, vỏ sắt xe tăng địch, chứ làm gì chảy thành nước được”.

Người thanh niên nghe vậy, hết nhìn tôi lại nhìn khẩu súng, vẻ ngưỡng mộ lắm. Lát sau, cậu ta nói với bà cụ:

“Mấy bố quận đội buồn cười thật, làm mấy đơn rồi mà không cho thằng này đi. Con trai một không phải đánh giặc à? Ở nhà chán bỏ xừ”.

Cậu ta lại mở bao thuốc, móc ra mấy điếu Đồ Sơn rồi gật đầu chào tôi và đứng dậy.

Bà cụ vội nói:

“Ấy ấy... Chưa trả tiền?”

“Lại căm sắc cắm tiếp”.

Bà cụ lắc đầu rồi lấy cuốn vở học sinh, mở ra ghi tôi mới hiểu là cậu thanh niên cắm nợ.

“Chú bộ đội ơi... - bà cụ bỗng hỏi tôi, giọng vừa có vẻ quan trọng, vừa như chia sẻ với người thân - nghe nói trong ấy đang ác liệt lắm. Hai thằng nhà này đi biền biệt, đứa năm năm, đứa ba năm không tin gì. Ông nhà tôi nghe đồn là thằng lớn hi sinh đâm ra tâm tư, khổ, chú à... - cụ bỗng hạ giọng xuống - liệu sắp hòa bình chưa hả chú?”

“Dạ... Chắc cũng không lâu nữa mẹ ạ...” Tôi nói thế để động viên bà cụ chứ làm sao biết được. Vậy mà bà cụ như cũng tươi tắn hẳn lên.

“Này... chú mới ra Hà Nội lần đầu à? Nhìn tôi biết. Nhớ cẩn thận kẻo bị mất đồ đấy. Ở đây nhiều kẻ cắp lắm”.

“Vâng ạ! À… đường về phố Phan Đình Phùng có khó không ạ?” Tôi vừa móc ví lấy tiền, vừa hỏi cụ đường về Trạm 66.

Cụ chỉ rất cẩn thận nhưng tôi cũng chỉ nhớ được cách ra đến bờ hồ Hoàn Kiếm, dự định đến đó hỏi tiếp. Thời gian còn nhiều, vội gì.

“Mẹ cho con trả tiền ạ!”

Tôi đang hồi hộp xem hết bao nhiều tiền thì bà cụ gạt đi:

“Chú là bộ đội chiến trường ra, cũng như con tôi, tiền nong gì”.

Đã thế, cụ còn cầm cả bao thuốc lá Điện Biên còn non nửa giắt vào túi áo ngực của tôi, cài khuy lại như ngầm bảo cấm được từ chối. Bất ngờ trước tấm lòng của cụ, một cảm xúc thật khó tả trào lên trong tôi, xen lẫn cảm động, gần gũi, biết ơn…

Sau đó, thật tôi không ngờ khẩu súng B41 và chiếc mũ tai bèo Quân Giải phóng lại thu hút sự chú ý của nhiều người ở Thủ đô như vậy. Nhất là các em nhỏ, đoạn qua phố Huế, rồi phố Hàng Bài, nhiều em nhỏ chạy theo hỏi han, xin được chạm vào khẩu súng trên vai tôi. Tất nhiên tôi luôn sẵn sàng chiều các em và thấy lòng vừa tự hào, vừa vui vui...

Và đây rồi, Hồ Gươm, mặt hồ xanh mây trời, kia là Tháp Rùa, xa nữa là cầu Thê Húc... Những hình ảnh yêu quý trong tâm trí từ lâu, tưởng như quá quen thuộc mà bây giờ tôi mới được tận mắt nhìn, lòng bỗng thấy liêu phiêu như lạc vào cõi mơ...

Đang rảo bước, chợt thấy hiệu ảnh Phương Đông ở phố Hàng Khay, tôi chợt nẩy ra ý định là chụp pô kỉ niệm lần đầu tiên đến với Hà Nội.

Hiệu ảnh đang khá đông, phần nhiều là các bạn thanh niên, các cháu học sinh ăn mặc đẹp đẽ, lịch lãm đang trang điểm hoặc ngồi chờ đến lượt chụp. Thấy tôi, mọi người gật đầu chào. Có cô gái xinh xinh, tóc phi dê, chắc tầm tuổi tôi còn mỉm cười: “Cháu chào chú bộ đội!” rồi đứng dậy nhường ghế. Chợt nghĩ mình đang quần áo bụi bặm, ba lô, súng ống lủng củng nên tôi đâm ngại. Nào ngờ, sự xuất hiện tôi trong hiệu ảnh làm cho không khí vui tươi hẳn lên. Mọi người nhường tôi chụp trước, nhưng tôi chỉ cảm ơn, chờ theo thứ tự. Cô có tóc phi dê còn mượn chiếc mũ giải phóng để chụp ảnh, không phải chỉ một kiểu mà đến mấy kiểu liền. Rồi không chỉ cô ta, nhiều người khác cũng thế. Lúc đầu, tôi cũng hơi ngại. Chiếc mũ tai bèo đã sờn cũ, ám thuốc súng và thấm mồ hôi của tôi... không ngờ lại được những người Hà Nội yêu thích như thế. Cho đến khi bác thợ ảnh già bảo tôi chụp thì trời cũng đã xuộm lại...

*

*         *

Nhập Trạm đón tiếp 66 (51 Phan Đình Phùng), tôi ngỡ ngàng vì lần đầu tiên được ở doanh trại sang và đẹp như vậy. Lớp tập huấn toàn quân năm ấy đều ở đây, sáng xe chở đi ra thao trường, lúc thì qua sân bay Gia Lâm để tập các bài kĩ chiến thuật đánh sân bay, khi lên Xuân Mai tập hiệp đồng tác chiến các quân binh chủng, có khi còn lên Sơn Tây được gọi là thủ phủ của lính thời bấy giờ tập đánh nhà tầng, tập tấn công trong thành phố và mấy tuần cuối, chúng tôi đến xã Đồng Tâm để thực tập vũ khí mới ở trường bắn Miếu Môn…

Trạm 66 khi đó không chỉ có trại tập huấn chúng tôi mà còn nhiều thành phần khác. Thấy mấy người lúc nào cũng ôm quyển vở, xì xồ tiếng Nga để chuẩn bị sang Liên Xô học, tôi vừa nể, vừa ngưỡng mộ. Lại thấy từng tốp nữ chiến sĩ ăn mặc thật điệu, cũng là đồ lính cả thôi nhưng từ quần áo, đến giày dép cứ rít rịt, vừa khẳm và sạch sẽ. Chiều chiều, người ta lại còn tổ chức chơi bóng chuyền, cầu lông, vui lắm. Cũng nhờ có chuyến tập huấn này mà lần đầu tiên tôi được biết thế nào là xem truyền hình. Người xem đông nghịt, hội trường nhỏ, người ta phải kê cái vô tuyến Neptune, là loại tốt nhất ở miền Bắc thời bấy giờ, đâu 24 inches, nhưng so với rừng lính ngồi xem phía trước quá nhỏ, lại chỉ có màu đen trắng và liên tục đổ hình, hay nổi sóng biển, lại không ít khi có hình mất tiếng, có tiếng lại mất hình... nhưng với tôi, và hầu hết lính ta có mặt ở đó rất háo hức chờ xem. Vui nhất là xem lại những trận bóng Word Cup 1974, dù nhìn không rõ mặt các danh thủ từng nghe tên trên đài phát thanh, vẫn ào lên những tiếng reo hò náo động cả binh trạm.

Lần đầu tiên đến Thủ đô, cũng là lần đầu tiên tôi được biết đến hai tiếng “nhà quê” do chính hai ông cùng sư đoàn tặng, dù thật tôi thấy mấy bố còn nhà quê hơn mình. Được cái, họ là sĩ quan, tính cũng xởi lởi nên hay chiêu đãi tôi hết phở lại chè đá. Lần nào các bố cũng nhắc tôi ăn gì, uống gì cũng phải để lại một ít, đừng vét sạch sành sanh mà người ta cười cho là nhà quê. Tôi thấy lạ, đang đói, đang khát, sao cứ phải bỏ lại một ít, vừa lãng phí, vừa làm khó cho người dọn, nên không chịu.

Một hôm, chúng tôi dạo qua vườn hoa Hàng Đậu, thấy có quán bia hơi, hai ông anh kéo tôi vào. Quả là tôi có nghe tiếng bia hơi Hà Nội từ lâu, nhưng lần đầu nhấp nhấp, tôi nhăn mặt, bảo khai khai, làm hai ông anh cười rũ, chê tôi nhà quê. Đã không uống bia, tôi lại chơi sạch đĩa lạc rang, nên hai người uống chay, bèn phạt tôi đi xếp hàng mua bánh mì ở của hàng đối diện, lúc đó đang ồn ào người chen nhau vì bánh mới về.

Lại một lần nữa tôi được mọi người ưu tiên không phải xếp hàng. Chắc là bộ quân phục và cái mũ tai bèo đã mặc định thương hiệu của người lính Giải phóng thủa ấy. Tôi thực sự cảm động, lên đầu hàng, mở mũ tai bèo đựng tiền và tem gạo đủ mua ba cái bánh mì thì lập tức, từ phía sau vai, những cánh tay vạm vỡ của đàn ông, nhỏ nhắn của đàn bà thò qua vai tôi, thả vào mũ tôi những tờ tiền và phiếu gạo nhờ mua hộ. Cô bán bánh mì thấy hết, nhưng không nói gì, chỉ xếp xếp, đếm đếm tiền và tem gạo rồi thả vào mũ tôi những ổ bánh mì thơm phức, nóng hôi hổi. Tôi ra ngoài, chỉ một loáng người gửi đã lấy hết sạch bánh mì trong mũ. Thế ba cái bánh mì của tôi đâu? Tôi chưng hửng, ngơ ngác nhìn mọi người. Cô gái đứng gần tần ngần, vẻ suy nghĩ rồi lặng lẽ bỏ vào mũ tôi một cái. Lại một người nữa, rồi một người nữa… Sao lại đến bốn cái thế này? Tôi lại ngơ ngác nhìn mọi người. Nhưng rồi họ tản ra, chẳng còn ai để ý đến tôi nữa. Ôi người Hà Nội!

Tôi trở về quán bia, đưa bánh mì cho hai ông anh đang ngồi với mấy cốc bia. Chắc là đang đói, hai ông mắt sáng lên, xé bánh mì nhậu với bia, anh Nguyện còn xé từng mẩu thả vào cốc bia nổi lềnh phềnh. Bất chợt, quán bia đang ồn ào bỗng như lắng xuống. Đại úy Lơm nhìn xung quanh, thấy nhiều người nhìn về bàn bia của anh em tôi, như lần đầu tiên được nhìn vật hiếm lạ. Anh Nguyệt cũng đảo mắt qua, đúng là chẳng thấy ai uống bia với bánh mì cả nên chúng tôi cất bánh vào túi rồi bấm nhau lẳng lặng ra khỏi quán.

Mấy hôm sau, nhân có trận bóng đá của đội Thể Công với Công an Hà Nội, mấy anh em háo hức đi xem. Lúc về, Đại úy Lơm mới phát hiện ra ví bỏ túi quần sau bị mất, may mà giấy tờ quan trọng và số tiền chẵn vẫn còn vì bỏ túi khác. Ông Lơm tức lắm, quyết lập mưu bắt bọn ăn cắp để trị tội. Đại úy cao mưu gập tờ báo cho vào túi quần sau giống cái ví căng tiền rồi ra mua vé xem phim rạp Tháng Tám, bảo anh Nguyện và tôi xếp phía sau rình bắt quả tang. Nào ngờ, chẳng bắt được kẻ cắp mà túi chiếc quần mới của Đại úy Lơm bị kẻ gian xẻ thành hai mảnh từ lúc nào không biết, vừa tức vừa buồn cười.

*

*          *

Hai tuần cuối của đợt tập huấn, chúng tôi lên Đồng Tâm để tập và thực hành sử dụng một số loại vũ khí mới. Mọi người ăn ở trong nhà dân, sáng sáng tập trung đầu làng rồi kéo bộ ra trường bắn Miếu Môn. Phải nói đây là một làng quê cổ kính và thơ mộng, tiêu biểu cho các làng truyền thống Đồng bằng Bắc Bộ thời ấy. Nhưng điều thích thú hơn cả dành cho anh em khắp các chiến trường hội tụ về đây tập huấn, làm cho ai cũng mắt tròn, mắt dẹt là vẻ đẹp hút hồn của các cô thôn nữ xứ này. Tôi cũng thế, mê lắm, nhưng chỉ giấu trong lòng thôi, không như Trung úy Nguyện, thích ra mặt với một cô gái bên cạnh nhà chúng tôi đóng quân. Anh gần 30 rồi mà chưa vợ, nói đúng hơn như lời anh kể là cũng suýt có vợ từ ngày nhập ngũ, do cha mẹ tìm vội được cô gái làng bên. Thương bố mẹ lắm, nhưng anh tìm cách trì hoãn cho đến ngày lên đường vì “cả hai đứa cứ dửng dưng, không yêu nổi”. Trong những ngày anh ở mặt trận, cô gái nọ cũng kiếm được tấm chồng, nên anh mãi vẫn chưa mảnh tình vắt vai. Ấy vậy nên lần này, anh gặp cô gái Đồng Tâm đúng mẫu người trong mộng đã quyết tâm theo đuổi. Tôi và Đại úy Lơm tạo mọi cơ hội để vun vào cho họ. Nhưng nhiệt tình thái quá suýt hỏng việc, lại liên lụy cả nhóm Sư 304 chúng tôi.

Chẳng là một hôm, bộ đội tập trung ở ngã ba làng, chuẩn bị kéo nhau ra trường bắn, thấy nhiều cô gái đang cấy lúa dưới cánh đồng, cách chúng tôi không xa. Trung úy Nguyện bỗng chỉ tay về phía họ, reo lên: “Kìa… nàng của tôi đấy!” Mấy người xung quanh cũng nháo lên đâu đâu, nhưng không phân biệt được vì các thôn nữ ngày ấy cứ na ná nhau, quần đen, áo nâu, nón trắng… Tiện đang tranh thủ lau chùi kính quang học súng B41, tôi đưa lên xem, phóng to đến bốn lần, thấy rõ bạn gái của anh. Mấy người thấy vậy cũng tranh nhau lấy kính quang học của tôi để xem. Tất nhiên, tôi chỉ ưu tiên cho chàng Nguyện mà thôi.

Như một phát minh tình cờ, hôm sau, vừa ra nơi tập trung, anh em tôi lại thay nhau ngắm các nàng qua ống kính phóng to của súng B41. Và hình như các nàng cũng biết họ đang là mục tiêu của đám bộ đội tập huấn nên ai cũng tỏ ra phấn chấn, có người còn cố làm duyên làm dáng cho bộ đội ngắm. Nhưng không hiểu tại sao, sang ngày thứ ba, các cô trở nên khép nép, tỏ ra ý tứ, quay lưng về phía chúng tôi. Đại úy Lơm bảo chúng nó lại làm kiêu ấy mà. Nhưng cũng không phải, vì khi chúng tôi trên đường ra bãi tập, đến điểm gần nhất chỉ cách mấy chục mét, nơi có nàng của anh Nguyện đang cấy lúa, tôi vừa tranh thủ đưa kính quang học lên, mấy cô gái rú lên, rồi xô nhau chạy xa như bị ma đuổi. Chúng tôi ngơ ngác nhìn nhau, không hiểu.

Chiều hôm đó, sau giờ tập, anh Nguyện vẫn như mấy hôm trước lại tấp tửng sang với nàng, nhưng nhận được sự đón tiếp hờ hững, nhạt nhẽo, thấy lạ mà chẳng hiểu vì sao.

Đến tối, sau giao ban, cả tổ Sư 304 chúng tôi được mời lên để Ban Chỉ huy Trại Tập huấn trao đổi. Sau khi nghe một ông hàm thiếu tá, trực chỉ huy Trại Tập huấn nghiêm khắc cảnh báo rằng, dân làng Đồng Tâm đang bức xúc vì bộ đội dùng máy quay xuyên thấu quay hình các thôn nữ làng họ, tính tôi lốp bốp, hỏi luôn, xuyên thấu là cái chi? Đại úy Lơm ngồi sát tôi, suýt phì cười, béo đùi tôi cái rõ đau như nhắc nhở cứ ngồi im. Ông thiếu tá trực ban tỏ ra rất nguyên tắc, e hèm mấy lần rồi lên tiếng, vẻ nghiêm trọng:

“Các anh có biết dân Đồng Tâm đang đồn là bộ đội trại ta dùng máy xuyên thấu để… lột trần các thôn nữ như không mặc quần áo. Tức là máy nhìn xuyên qua hết quần áo. Các đồng chí hiểu không?”

“Hiểu!” Cả ba chúng tôi cùng đáp.

“Các anh hiểu nhưng dân làng không hiểu. Họ nghĩ là quân đội mình trụy lạc, trác táng, suy đồi, sẽ ảnh hưởng đến công tác dân vận. Rồi sẽ đến tai bộ tổng tham mưu và còn các lớp tập huấn sau này…”

Tôi không ngờ sự việc lại nghiêm trọng như vậy. Trong lúc tôi và Đại úy Lơm nhìn nhau ngán ngẩm, Trung úy Nguyện mặt tái bợt, vẻ hoang mang vì việc này như gáo nước lạnh đổ vào mối tình đang nồng thắm của anh và cô gái Đồng Tâm, thì thiếu tá trực ban bỗng thay đổi thái độ, oàm cả người lên bàn để ghé gần vào ba chúng tôi, thẽ thọt:

“Theo tôi chiều mai tôi cùng các đồng chí sang nhà cô gái… - ông liếc nhìn anh Nguyện như đã biết tỏng mọi chuyện rồi - giải thích cho gia đình để họ khỏi hiểu nhầm. Từ đó, dân làng sẽ hiểu và không còn dị nghị”.

Tất nhiên rồi. Còn cách nào hơn chứ. Mà chứng tôi có phải bậy bạ như người ta nghĩ đâu. Cứ tưởng sự cố này có nguy cơ làm hỏng mối tình của anh Nguyện thì thật bất ngờ, đã tạo cơ hội để chuyện tình của họ được gia đình cô gái công nhận. Đúng là trong cái rủi có cái may.

Bố của cô người yêu anh Nguyện, một ông già quắc thước, khí khái nhưng hiểu chuyện. Sau khi nghe thiếu tá trực ban thay mặt cho Ban Chỉ huy Trại Tập huấn giải thích và được ngắm qua ống kính quang học súng B41, ông gật gù, rồi quay xuống bếp gọi con gái ra xin lỗi. Khổ! Cô có lỗi gì đâu chứ! Tại có người hay đưa chuyện, dân làng hay đồn thổi chứ cô chỉ là nạn nhân. Cũng qua buổi gặp gỡ, ông bố cô gái được ngắm anh Nguyện, được chuyện trò với chàng sĩ quan trẻ đẹp trai, hào hoa đang theo đuổi con gái của mình, tỏ ra vui lắm.

Thế rồi, trước ngày chia tay, gia đình mời cả nhóm chúng tôi bữa tươi rất xôm xả, vừa thắm tình quân dân vừa là sự chấp nhận cho con gái họ với chàng sĩ quan về tập huấn…

Trở lại Hà Nội, tôi thấy Trung úy Nguyện như kẻ khác, thấp thỏm, bần thần, hay tìm chỗ vắng. Đúng là kẻ đang yêu, hay nói đúng hơn là kẻ lần đầu được yêu. Nhưng yêu thì phải vui lên, phấn chấn lên chứ sao lại cứ như mất hồn vậy. Có lần tôi bóng gió, hỏi anh. Anh chân tình:

“Bao giờ yêu cậu sẽ biết! Hạnh phúc thật! Nhưng sao tớ cứ thấy mong manh. Ôi giá như không còn chiến tranh, chúng ta không phải ra trận nữa… thì tớ nghĩ thế gian này không ai hạnh phúc hơn tớ lúc này…”

Lúc đó, tôi chưa hiểu hết nỗi niềm của anh, của những người lính mới yêu phải ra trận. Sau này, khi vào mặt trận, tôi trở lại Thượng Đức, anh Nguyện về Trung đoàn 24 của sư tôi, rồi bặt tin nhau. Mãi sau giải phóng tôi tìm đường thăm anh, mới đau đớn biết anh đã hi sinh tại trận đánh Nước Trong - Long Bình, ít ngày trước khi chiến tranh kết thúc.

*

*        *

Ngày cuối cùng, sau cuộc liên hoan chia tay, chúng tôi được lệnh tập trung, súng ống, trang bị như ra trận rồi xe và người rầm rập tiến qua các con phố lớn của Thủ đô, nhất là những phố nhiều cơ quan, đại diện các đại sứ quán, tổ chức quốc tế.

Hôm đó là kỉ niệm hai mươi năm ngày giải phóng Thủ đô, cùng với mùi hoa sữa ngan ngát thơm, trong tôi bỗng dậy lên một tình cảm nồng nàn, da diết. Nhìn những cánh tay giơ vẫy chào của những người dân Thủ đô tôi thấy sao mà gần gũi, ân tình. Và kia nữa, không ít ánh mắt tò mò, ống kính săn hình của những người nước ngoài, nhắc nhở tôi đất nước đang có chiến tranh.

Đến nửa đêm, đoàn quân chúng tôi lại một lần nữa diễu qua các con phố lớn rồi dồn về ga Hàng Cỏ. Kẻ lên tàu, người lên xe ô tô, tiếp tục cuộc hành trình. Nhóm Sư 304 chúng tôi cùng anh em Quân đoàn 2 ngồi trên chiếc xe chăng cờ, khẩu hiệu, cùng đoàn Nam tiến trong những hành khúc rộn rịp thôi thúc: “Đoàn Giải phóng quân một lần ra đi. Lòng có sá chi đâu ngày trở về…”

Riêng tôi, may mắn sao, năm 1977, là một trong những người đi hôm ấy được trở lại Thủ đô với trang sách giảng đường như đã từng mơ ước.

Ngày đầu tiên sau khi nhập học, lang thang thăm lại những kỉ niệm lần đầu. Nhưng quán cóc của bà cụ không còn, thay vào đó là ki ốt bán kem; hiệu ảnh Phương Đông vẫn còn, nhưng những người gặp tôi hôm đó sao có thể gặp hôm nay. Rồi Trạm 66, quán bia, hàng bánh mì… Không hiểu sao tôi có cảm giác tất cả đang thay đổi…

T.C.T