Thứ Ba, 30/12/2025 09:10

Lính thợ

Trước mắt tôi là những “chiến mã thép” đang được hồi sinh. Từ trong những vỏ thép, thi thoảng lại có một cái đầu nhô lên khiến tôi bất ngờ... (Ghi chép của TRẦN ĐỨC TĨNH)

. TRẦN ĐỨC TĨNH

Cuộc diễu binh A50 mừng 50 năm ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và A80 mừng 80 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam diễn ra đã khơi dậy niềm tự hào thiêng liêng, sâu sắc trong lòng người dân cả nước. Dưới nắng sớm, những bước chân dồn dập, mạnh mẽ, từng hàng quân trang nghiêm tiến qua lễ đài cùng các loại vũ khí, khí tài trong những tiếng reo hò của nhân dân đứng hai bên đường… Giữa dòng cảm xúc cuộn trào ấy, tôi nhớ lại chuyến đi cùng nhà báo Nguyễn Kiên Thái về thăm Xưởng X1, nơi những người “lính thợ” đã và đang lặng lẽ góp sức giữ cho dòng chảy công nghiệp quốc phòng không ngừng vận hành. Sau những cánh cửa nhà xưởng khiêm nhường, những người lính thợ lặng lẽ cặm cụi bên từng thân xe bám bụi thời gian. Họ không hiện diện trên lễ đài, nhưng mỗi vết hàn, mỗi lần tra dầu chính là góp phần tạo nên vóc dáng hùng tráng của đội hình tiến qua quảng trường trong hai dịp lễ trọng đại của đất nước.

Tác giả với những người lính thợ Xưởng X1. Ảnh: PV

Hôm ấy, tiếp chúng tôi có đầy đủ ban lãnh đạo xưởng: Thượng tá Nguyễn Huy Cương, Giám đốc; Đại tá Nguyễn Ngọc Thạnh, Chính trị viên cùng hai phó giám đốc. Xưởng X1, tiền thân là Tiểu đoàn 1 sửa chữa tổng hợp, được thành lập ngày 2/6/1979, với nhiệm vụ sửa chữa, bảo đảm kĩ thuật cho lực lượng tăng - thiết giáp. Trải qua hơn 45 năm xây dựng và trưởng thành, dấu chân những người lính xưởng đã in khắp mọi miền đất nước và làm nhiệm vụ quốc tế tại Lào, Campuchia. Theo Thượng tá Nguyễn Huy Cương, Xưởng X1 hiện sửa chữa tăng - thiết giáp xích, thiết giáp bánh lốp, vũ khí, thông tin... Mỗi phân xưởng là một mắt xích gắn bó chặt chẽ trong guồng máy đồng bộ, phục vụ hiệu quả cho công tác bảo đảm kĩ thuật. Họ gắn bó với nhau cả trong đời sống thường nhật khi có rất nhiều cán bộ, công nhân viên đã nên duyên từ cùng phân xưởng. Tình đồng đội, đồng nghiệp dần hóa thành tình thân, tình người nhà. Gần xưởng có khu gia đình quân nhân, con cái đến trường không xa, vợ chồng sum vầy sau mỗi ca làm - tất cả khiến không khí nơi đây vừa ấm cúng, vừa ổn định, tạo điều kiện để mỗi người yên tâm công tác, gắn bó dài lâu.

Dừng lại trước dãy nhà đang rộn rã tiếng máy nén khí xen lẫn tiếng búa, tiếng máy cắt, vì quá ồn ào, chúng tôi phải thét vào tai nhau để nói chuyện. Trước mắt tôi là những “chiến mã thép” đang được hồi sinh. Từ trong những vỏ thép, thi thoảng lại có một cái đầu nhô lên khiến tôi bất ngờ. Tôi cúi người nhìn vào một khoang máy, nơi Trung tá QNCN Vũ Mạnh Thắng đang nghiêng mình hì hụi cắt chiếc bu lông bị chờn ren. Lửa cắt kim loại nổ lách tách, ánh sáng hắt lên khuôn mặt sạm khói của anh. Trong khoảnh khắc, tôi không chỉ thấy một người lính thợ đang làm nhiệm vụ, mà còn là một nghệ nhân đang chăm chút cho từng chi tiết, và mỗi thao tác kĩ thuật là một cú chạm chữa lành. Anh ngẩng đầu nhìn tôi cười, đưa tay quệt vết dầu trên má: “Có cái bu lông nhỏ thôi, thế mà mất cả tiếng chưa tháo được”. Câu nói tưởng chừng đơn giản ấy, nhưng lại chứa triết lí của người lính thợ: Mọi sự ổn định phía sau đều bắt đầu từ những thứ nhỏ nhất. Anh Thắng gắn bó với xưởng từ năm 1995, đến nay đã tròn 30 năm. Vợ anh là giáo viên gần đơn vị. Anh bảo, sống ở đây, giờ đơn vị cũng như gia đình. Sáng đến xưởng làm việc, tối về nhà ăn cơm vợ nấu cũng rất thuận tiện.

Dọc phân xưởng, trong tiếng búa đập, tiếng vít xoay, thi thoảng có những tiếng người gọi nhau, ngắn gọn, nhưng thấu hiểu. Những nhóm thợ cứng, toàn những người có trên chục năm kinh nghiệm, cùng nhau chăm chút cho từng chi tiết máy. Thượng tá Nguyễn Huy Cương chia sẻ: “Xưởng có năm phân xưởng chuyên môn, mỗi nơi đều có đời sống riêng, nhịp điệu riêng, nhưng có một điểm chung: họ coi việc sửa chữa là sứ mệnh, là cách góp phần giữ vững thế trận quốc phòng”. Đó không phải lời tuyên truyền mà là thực tế tôi đang chứng kiến. Tôi dừng lại lâu hơn trước một cỗ máy vừa tắt. Thiếu tá Nguyễn Kim Sơn đứng bên cạnh đang chăm chú quan sát từng chi tiết. Hỏi ra tôi mới biết đây là giá thử động cơ, mô hình sáng kiến mà anh đang tham dự Giải Tuổi trẻ sáng tạo trong Quân đội lần thứ 25. Các cỗ máy đều hoạt động theo các nguyên lí, nhưng việc bảo đảm nó hoạt động trơn tru lại phụ thuộc vào trình độ của từng người thợ. Chỉ cần một chi tiết máy lâu ngày với chiếc gioăng bị lão hóa cũng có thể biến cỗ máy thành đống sắt vụn nếu không phát hiện kịp thời.

Tôi bị hút vào câu chuyện của Thiếu tá Nguyễn Kim Sơn, người sĩ quan kĩ thuật có đôi mắt sắc sảo, giọng nói trầm ấm nhưng đầy nội lực. Giá thử động cơ, mô hình sáng kiến do anh chủ trì thoạt nhìn đơn giản nhưng là kết tinh của hàng trăm giờ lao động miệt mài, hàng chục lần thử sai, và quan trọng nhất, là tinh thần đổi mới từ chính trái tim của người lính thợ. Trước đây, việc kiểm tra động cơ thường phải lắp ráp vào xe thật để vận hành thử, mất thời gian, công sức và đôi khi tiềm ẩn rủi ro kĩ thuật cao. Sáng kiến “giá thử động cơ” của anh đã giải quyết chính xác bài toán này. Mô hình cho phép thử nghiệm, kiểm tra động cơ rời một cách độc lập, tái hiện các điều kiện vận hành thực tế như nhiệt độ, áp suất dầu, tần số vòng tua máy… Đồng thời, thiết kế linh hoạt, có thể điều chỉnh phù hợp với nhiều dòng động cơ khác nhau trong trang bị hiện tại của đơn vị. Điều này không chỉ giúp tiết kiệm chi phí, mà còn rút ngắn đáng kể thời gian chuẩn bị kĩ thuật cho các phương tiện. Tôi quan sát chiếc giá thử được lắp ráp gọn gàng trong khu vực nhà xưởng. Hệ thống đồng hồ áp suất, ống dẫn nhiên liệu, khung thép gia cường chắc chắn, đi kèm bảng điều khiển điện tử, tất cả thể hiện sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa cơ khí truyền thống và ứng dụng kĩ thuật số hiện đại. Mỗi chi tiết đều phản ánh tư duy của một người cán bộ kĩ thuật vừa có tâm vừa có tầm, sâu sát và thực tế.

Trong thời đại công nghệ biến đổi từng ngày, việc người lính có thể tự thiết kế, chế tạo, ứng dụng thành công một thiết bị phức tạp như thế không chỉ cho thấy năng lực cá nhân, mà còn phản ánh sự trưởng thành vượt bậc của đội ngũ cán bộ, nhân viên kĩ thuật trẻ trong quân đội. Từ bị động sửa chữa sang chủ động làm chủ kĩ thuật, nó không chỉ tiết kiệm - hiệu quả - chính xác, mà còn truyền cảm hứng mạnh mẽ cho lớp trẻ: hãy dám nghĩ, dám làm, và dám tin vào những điều mình tự tay tạo ra.

Khi trời đã đứng bóng, trên nền sân xi măng loang dầu, mấy chiếc xe thiết giáp lặng lẽ nằm phơi nắng. Không ai nói, nhưng tôi hiểu, từng chiếc xe ấy, từng bánh xích, từng hệ thống phanh, từng mối hàn - là mồ hôi, là tinh thần trách nhiệm, là niềm kiêu hãnh của những người lính thợ. Và chính ở nơi này - nơi không có tiếng súng, không có lễ đài hay ánh đèn sân khấu, tôi đã bắt gặp hình ảnh một phần hồn cốt của những người lính thợ Xưởng X1 “Âm thầm, tận tụy, bền bỉ”, nhưng vững vàng như chính những cỗ xe thép đang chờ ngày chuyển bánh.

Đại tá, Chính trị viên Nguyễn Ngọc Thạnh là bạn học cũ thời Trường Sĩ quan Lục quân 1 của tôi. Tròn 25 năm kể từ ngày rời giảng đường, tôi và Thạnh ít có dịp gặp lại. Thời gian như một cơn gió lặng lẽ trôi qua, người bạn ngày nào ít nói, giỏi thực hành, luôn đi đầu trong các đợt huấn luyện chuyên ngành trinh sát cơ giới giờ là một chính trị viên điềm đạm, bản lĩnh, giọng nói trầm và ánh mắt ấm áp của người từng trải. Gặp lại Thạnh, cảm giác như những tháng ngày thao trường ập về, tiếng hô tập hợp dưới nắng trưa, buổi tối căng lều giữa rừng để luyện thực hành hành quân, từng tiếng cười, từng câu chuyện vu vơ, cả những lúc đùn đẩy nhau trực bếp, như vẫn còn nguyên vẹn. Tôi nhìn Thạnh, thấy trong dáng dấp của bạn tôi ngày xưa một sự chín chắn mà thời gian và trải nghiệm đã nhào nặn nên. Bao nhiêu năm xa cách, không nhiều thư từ, chẳng nhiều lần hỏi han, vậy mà chỉ cần bắt tay nhau, ánh mắt chạm nhau, là mọi khoảng cách dường như tan biến. Tình bạn, tình đồng đội - có khi không cần nói nhiều, chỉ cần một cái nhìn, một cái vỗ vai, cũng đủ để hiểu rằng: tình đồng đội là thứ không bao giờ thay đổi.

*

*           *

Dưới mái xưởng, những chiếc PT-76 nằm san sát. Đó là những xe thiết giáp oanh liệt một thời, giờ đây đang được hồi sinh để khoác lên mình màu sơn mới chuẩn bị cho lễ diễu binh diễu hành. Tôi nhìn thấy những bóng áo lính thợ nhễ nhại mồ hôi, gò lưng trên từng thân xe thép. Một người đang dưới gầm xe, bàn tay lấm lem dầu mỡ, nhưng ánh mắt thì sáng lên trong từng thao tác chuẩn xác. Bên kia, một người lính trung niên đang cặm cụi đo từng khe hở giữa trục dẫn động và càng bánh xích. Với họ, đây không chỉ là công việc, đó là kí ức, là niềm tự hào, là sự nối tiếp của một thế hệ từng chiến đấu bằng chính những cỗ xe này. Từng vệt sơn mới đang dần thay thế lớp bụi thời gian. Những đường hàn được đánh bóng, những con ốc cũ được thay bằng loại chống gỉ mới. Từng chi tiết dù nhỏ nhất, như vành bánh, bu lông nắp máy cũng được kiểm tra, hiệu chỉnh cẩn thận. Có những thứ người ngoài nhìn vào tưởng như vụn vặt, nhưng với người lính thợ, đó là sự sống còn của cỗ máy. Mỗi bu lông siết lại là một lời thầm nhắc: “Hãy sẵn sàng”. Mỗi mối hàn sáng lóe là một tuyên ngôn thầm lặng: “Chúng tôi đang chuẩn bị cho ngày hội lớn của đất nước”. Những người lính thợ ở đây mang trong mình lòng yêu nghề, tinh thần kỉ luật, và một ý thức sâu sắc rằng họ đang đóng góp phần mình vào bản hùng ca chung của dân tộc. Dẫu không đứng trên lễ đài, dẫu không bước đều trên quảng trường, nhưng những dấu tay dầu mỡ của họ sẽ hiện hữu trong từng bước diễu hành hiên ngang đầy khí thế. Trong từng nhát búa, từng vết sơn, tôi thấy hiện lên một chân dung khác của người lính thời bình: kiên cường, tận tụy, và đầy kiêu hãnh dưới mái xưởng rộng lớn ngập ánh sáng thép.

Có người bảo lính thợ thì đời thường lắm, không hào hoa như lính trinh sát, không uy lực như lính pháo binh. Nhưng tôi không nghĩ vậy. Trở lại với câu chuyện của cây sáng kiến, hơn chục năm gắn bó, Sơn lặng lẽ bước qua bao lần cải tiến thiết bị, bao thế hệ xe thiết giáp được đưa về phục hồi dưới tay anh và đồng đội. Cuộc sống riêng của Sơn cũng giản dị như chính con người anh. Ít nói, trầm tính, nhưng khi nói về máy móc thì ánh mắt Sơn sáng lên như đứa trẻ tìm thấy món đồ chơi cũ thân thương. Đằng sau lớp áo lấm dầu mỡ ấy là một trái tim đầy trách nhiệm, và một người thợ mang tinh thần cống hiến.

Cuộc diễu binh A80 đến trong một thời đại mới, thời đại của hội nhập, công nghệ, và những khát vọng xa hơn. Một buổi lễ để cả dân tộc nhìn lại gần một thế kỉ trưởng thành, là sự cộng hưởng của lịch sử và hiện tại. Là nơi mà người dân đặt trọn lòng tin vào những người lính.

Chúng tôi bước ra sân, nhìn dãy xe đang lần lượt hoàn thiện. Những vệt sơn còn thơm, ánh nắng chiếu lên thân thép tạo nên thứ ánh sáng lấp lánh kì lạ. Câu chuyện kĩ thuật có thể khô khan với nhiều người, nhưng với tôi, nó luôn gợi lên một sự sống - sống trong từng vòng quay động cơ, trong từng nhịp đập của xi lanh, trong cả tiếng rít lên của lưỡi cưa đang xử lí chi tiết cuối cùng trước giờ diễu binh. Và hơn cả, tôi thấy sống trong ánh mắt rạng rỡ của những người lính thợ - những người xem chiếc xe như một người bạn, người đồng hành, thậm chí như một phần máu thịt của mình. Giữa khu nhà xưởng giản dị kia, biết bao lần bánh xích lăn đi mang theo cả niềm tin và khát vọng của những người lính thời bình.

Đến một phân xưởng khác, tôi chợt bật cười trước một cái tên hoàn toàn trái ngược với đức tính của anh: Bùi Đức Ngừng. Nhà báo Nguyễn Kiên Thái vốn từng trải qua nhiều đơn vị trong đó có Xưởng X1 trước khi về làm phóng viên Báo Quân đội nhân dân. Lần trở lại này cũng là về thăm đơn vị cũ. Thật bất ngờ, Thiếu tá QNCN Bùi Đức Ngừng là người học trò từng theo học lớp trung cấp chuyên tu tại Trường Trung cấp Kỹ thuật Tăng - Thiết giáp hơn hai mươi năm trước mà anh đã từng quản lí. Con đường quân ngũ của Bùi Đức Ngừng bắt đầu khi anh tình nguyện nhập ngũ tại Lữ đoàn xe tăng 203. Sớm bộc lộ tố chất kĩ thuật, anh được chọn đi đào tạo sửa chữa điện tăng - thiết giáp. Từ đó, cuộc đời anh gắn liền với những mạch điện, thiết bị đặc chủng và hệ thống kĩ thuật phức tạp trên các dòng xe tăng như T-54B, T-55, PT-76. Những chuyến công tác dã ngoại từ Bắc chí Nam đã rèn giũa anh trong môi trường khắc nghiệt, không ít lần phải “độc lập tác chiến” với những hỏng hóc phức tạp như hệ thống chữa cháy trên xe chiến đấu.

Anh kể, lần đầu sửa hệ thống PPO-PAZ trên T-54B, anh mất cả tuần ăn ngủ bên xe, kiên trì lần theo từng mạch điện, hỏi thợ bậc cao rồi mới thành công. Những bài học đó, anh ghi lại cẩn thận, từng bước vẽ lại sơ đồ, nâng dần trình độ tay nghề và lòng tin của đồng đội. Không chỉ là người thợ lành nghề, Thiếu tá QNCN Bùi Đức Ngừng còn là “cây sáng kiến” thực thụ. Anh là tác giả của hàng loạt mô hình thiết bị sáng tạo phục vụ công tác sửa chữa kĩ thuật như: “Thiết bị kiểm tra hệ thống chữa cháy xe T-54B”, “Thiết bị kiểm tra cơ cấu dừng động cơ”, “Giá thử PPO-PAZ trên xe BMP-1”… Đặc biệt, sáng kiến “Giá thử hệ thống chữa cháy và phòng, chống bom trên xe T-55 và PT-76” đã hai năm liên tiếp đạt giải Ba cấp Tổng cục Kỹ thuật và được triển khai rộng rãi trong toàn quân. Các sáng kiến của anh đều có tính ứng dụng cao, tiết kiệm chi phí, dễ khai thác và đặc biệt an toàn. Khi vận hành mô hình PPO-PAZ do anh chế tạo, chỉ cần hơ nóng cảm biến là thiết bị lập tức phát tín hiệu báo động - mô phỏng chân thực tình huống chiến đấu, hỗ trợ rất lớn trong công tác huấn luyện và bảo dưỡng xe. Như lời Thượng tá Nguyễn Huy Cương, tự hào chia sẻ: “Đồng chí Ngừng không chỉ là thợ sửa chữa bậc cao mà còn là tấm gương sáng về tinh thần tự học, tự nghiên cứu. Những sáng kiến của đồng chí có giá trị thực tiễn lớn, đóng góp thiết thực vào kết quả hoàn thành nhiệm vụ kĩ thuật của đơn vị”. Bùi Đức Ngừng kiệm lời nhưng đằng sau gương mặt rám nắng là một ý chí bền bỉ. Với anh, mỗi sáng kiến không chỉ là thành tích, mà là kết tinh của trải nghiệm, tâm huyết và trách nhiệm của một người lính thợ đối với trang bị và chiến sĩ. Lặng lẽ nhưng rực sáng, anh là hiện thân của một lớp người lính thời hiện đại: cần mẫn, trí tuệ và không ngừng tiến bước trên con đường sáng tạo.

Trong không gian rộn rã tiếng máy và mùi dầu nhớt, mùi sắt thép đặc trưng của Xưởng X1, có một con người đã đi qua gần như trọn vẹn chiều dài của đơn vị ấy. Đó là Đại tá Lương Khắc Tiến - người mà cả cuộc đời binh nghiệp gắn chặt với nơi này, từ khi mới ra trường cho đến khi đảm nhận cương vị Giám đốc Xưởng. Gần 40 năm đi qua trong quân ngũ, dấu chân của anh in hằn nơi từng khoang máy, từng nền nhà, từng gốc cây của xưởng. Nhiều người ví anh như một “cây cổ thụ” của đơn vị, không chỉ bởi thời gian gắn bó, mà bởi tấm lòng và những hành động đầy trách nhiệm, thiết thực mà anh dành cho anh em lính thợ. Có một chi tiết không nhiều người ngoài đơn vị biết, nhưng lại nói lên rất nhiều về bản chất của người chỉ huy ấy. Đó là việc anh mạnh dạn đề xuất và vận động để hình thành khu gia đình của xưởng, nơi mà bao nhiêu gia đình quân nhân sau này được an cư, yên tâm gắn bó với đơn vị. Anh kể, có thời điểm xưởng gặp nhiều khó khăn. Anh em lính thợ phần lớn từ các tỉnh xa về, sống trong khu doanh trại đơn sơ, thiếu thốn tiện nghi, không ít người lưỡng lự khi nghĩ đến chuyện lập gia đình, càng không thể tính chuyện ổn định lâu dài. Những ngày ấy, sau giờ làm việc, không khí trong xưởng lặng lẽ hơn cả đêm khuya. Giọng anh Tiến chùng xuống khi nhớ về những đồng đội giỏi nghề, đầy tâm huyết nhưng cuối cùng đành rời bỏ đơn vị chỉ vì không thể sắp xếp được đời sống cá nhân. Từ nỗi trăn trở ấy, anh mạnh dạn đề xuất với cấp trên về việc xin đất, quy hoạch khu gia đình ngay cạnh xưởng - nơi cán bộ, quân nhân có thể cất một mái nhà, yên tâm xây dựng tổ ấm. Với anh, sự gắn bó không thể chỉ là khẩu hiệu, mà phải có điều kiện, có thực tế. Đề xuất ban đầu vấp phải nhiều khó khăn, nhưng nhờ sự kiên trì và uy tín cá nhân, cuối cùng khu gia đình cũng dần thành hình. Và kể từ đó, không khí của Xưởng X1 đã khác. Người ta vẫn hay nói “muốn giữ người, hãy giữ bằng cái bao tử”, và với Đại tá Lương Khắc Tiến, trái tim của anh là cả một không gian sống dành cho đồng đội.

Nay anh đã nghỉ hưu, nhưng mỗi lần trở lại xưởng, anh vẫn bước chậm qua từng dãy nhà, dừng lại trước những cỗ xe quân sự như thể đang trò chuyện với người bạn cũ. Đối với anh, Xưởng X1 không chỉ là nơi công tác, mà là máu thịt, là kí ức, là minh chứng cho một đời người lính thầm lặng dựng xây. Trong một thời đại mà sự chuyển dịch và rời bỏ đang trở thành xu thế phổ biến, thì việc giữ người, giữ nghề, giữ tình vẫn luôn là điều đáng quý. Và trong câu chuyện của Đại tá Lương Khắc Tiến, ta hiểu rằng: người lính không chỉ biết đánh giặc hay sửa xe, mà còn biết kiến tạo, bằng cả tấm lòng son sắt với đơn vị, với đồng chí, với cuộc đời.

*

*          *

Thời gian trôi đi như dòng sông chảy mãi, nhưng có những thứ vẫn còn ở lại rất sâu trong lòng người như một khúc trầm lặng của bản nhạc đời binh nghiệp. Rời đơn vị, trong đầu tôi cứ văng vẳng tiếng máy mài, tiếng búa vang lên nhịp nhàng. Những người lính thợ nơi đây cống hiến thầm lặng nhưng bền bỉ, không phô trương mà đầy nhân hậu và sâu sắc. Xưởng X1 không chỉ là nơi sửa chữa máy móc, lắp ghép những chi tiết cơ khí mà còn là nơi gắn kết con người. Tôi đã đi qua nhiều đơn vị, từng trải qua những môi trường huấn luyện khắc nghiệt, và nơi đây giữa ánh lửa hàn cháy lên, giữa những con người giản dị, tôi thực sự cảm nhận được chiều sâu của hai từ “lính thợ”.

T.Đ.T